Niềm vui của ông tôi

Tâm sự 11/03/2024 10:12
Cha tôi rưng rưng kể, ông nội mất khi còn trẻ để lại cho bà 7 đứa con (5 trai, 2 gái) còn thơ dại. Cây cải về trời, rau răm ở lại, một mình nuôi đàn con 7 đứa. Cơm đâu? Áo đâu cho con ăn mặc? Lại còn cái chữ nữa chứ! Đời mình đã không biết chữ, khổ sở trăm chiều, lẽ nào lại để các con dốt nát, thất học? Tương lai chúng sẽ ra sao? Từng câu hỏi tự vấn như trận mưa roi quất vào lòng bà, người thiếu phụ chưa đầy 40 tuổi. Bao nhiêu gánh nặng đè lên vai bà, liệu bà có đứng vững được không?
Quê tôi thuộc vùng chiêm trũng, chưa nắng đã hạn, chưa mưa đã lụt. Tháng Năm, tháng Sáu gió Lào quạt lửa cháy cây. Tháng Bảy, tháng Tám mây trời đen kịt, trút nước xuống làng. Nhà cửa bồng bềnh trên mặt nước. Cái quê nghèo thâm căn cố đế bởi mùa thối, chiêm khê, bát cơm manh áo luôn luôn là nỗi phập phồng, lo âu của người dân bản địa, nhất là thân phận những bà mẹ đông con.
Nhờ trời đất, tổ tiên phù hộ, bà tôi vẫn khoẻ, đẹp như thời con gái. Thờ chồng, nuôi con rất mực thuỷ chung. Nhà nghèo, bà vẫn động viên các con đi học trường tư để sau này cống hiến cho đất nước. Bà thường dạy con cháu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Trăm công, ngàn việc một tay bà quán xuyến, lo toan. Một năm hai vụ chiêm mùa, bà tập cho cha tôi và chú hai vốc vếch làm đất, cấy hái, bón chăm, chăn nuôi, hai o bắt đầu học việc.
Đàn con lớn lên trông thấy. Ai cũng khoẻ, cũng đẹp, lại ngoan ngoãn, nết na, dân cả làng yêu mến. Người vui nhất là bà tôi. Cứ mỗi đêm trăng tỏ, ba bốn bà liên gia lại đến quây quần bên nhau, người kéo sợi, người dệt vải, chuyện trò thật rôm rả. Có bà vừa nhai trầu, vừa cao hứng nói: “Không biết chị Cẩn có bí quyết gì mà nuôi con lớn nhanh như thổi”. Người kia tiếp liền: “Con trai, con gái đứa nào cũng xinh, cũng đẹp, lại hay giúp đỡ người già, trẻ con, nói năng khiêm nhường, lễ phép. Tui có hai con gái, bà ưng đứa mô, tui cho tuốt”. Tiếng cười nói nở như ngô rang.
Thời gian thoăn thoắt trôi đi, đàn con đã trưởng thành, khôn lớn. Trai dạm vợ, gái gả chồng. Chú thứ 5 không may qua đời ở tuổi 16. Cha tôi và chú hai xung phong đi dân công hoả tuyến, phục vụ kháng chiến chống Pháp, đến năm 1954 mới trở về.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, chú thứ 6 và thứ 7 lần lượt tạm biệt mẹ già, vợ trẻ, con dại, xẻ dọc Trường Sơn, vào Nam đánh giặc,…
Mái tóc bà dần nhuộm sương, rồi bạc trắng. Gần tuổi bát tuần nhưng bà còn nhanh nhẹn, mắt sáng, tai tinh, nhất là trí tuệ hãy còn minh mẫn… Nhiều lần cha tôi xin đón bà về để phụng dưỡng cho tròn đạo hiếu. Bà bảo: “Cảm ơn con, mẹ còn khoẻ, còn tự lập được. Lúc nào nước nhà thống nhất, hai em phục viên, mẹ mới về”.
Thế rồi sau Tết Mậu Thân 1968, một tin như sét đánh ngang tai: Chú Trần Văn Lương hi sinh ở chiến trường Tây Nam. Giấy báo tử về nhưng bà tôi vẫn không tin đó là sự thật. Bà vừa khóc vừa van con: “Lương con ơi! Có phải vậy không con? Không thể nào như thế được! Con không chết! Con tôi không chết! Con vẫn còn sống! Mẹ vẫn đêm ngày trông đợi con đây! Vợ con vẫn mong chờ từng giờ, từng phút! Con không thể chết! Con ơi! Con ơi!...”.
Từ hôm ấy, bà về ở với ba mẹ con thím, suốt ngày hướng về phương Nam như hi vọng điều gì, nước mắt giàn giụa. Bà nghĩ: “Có lẽ họ báo nhầm chăng. Xưa nay vẫn có trường hợp: Giấy báo tử về nhưng người vẫn còn sống”. Bà ôm chặt chiếc ba lô vào lòng, đầu gật gật: “Mùi mồ hôi này thì đích thực là của nó”. Nhưng bà vẫn hi vọng: “Con tôi vẫn còn sống, còn đánh giặc”.
Bà thương con đẻ, càng thương con dâu, mới 30 tuổi mà đã mất chồng, hai đứa con gái sớm chịu mồ côi. “Thôi con ạ, chiến tranh mà, đau thương, mất mát đâu chỉ gia đình ta. Tổ cha thằng Mỹ, chúng cướp nước ta mới gây nên cảnh chết chóc này”. Dẫu biết rằng trong cuộc trống mái ác liệt, không có hi sinh làm sao có thắng lợi! Vậy mà lòng bà vẫn cứ xót xa, đau đớn.
Mãn tang chú, bà tỉ tê với thím: “Con ạ, con còn trẻ, đời còn dài, hai đứa bé để mẹ nuôi, con hãy đi bước nữa. Đời người phụ nữ cần có một bờ vai người đàn ông để trông cậy. Con cứ ở vậy, không ổn đâu”. Rồi hai mẹ con ôm nhau nức nở.
Năm tháng sau, thím bước sang ngang. Dưới mái nhà tranh, ba bà cháu bìu ríu bên nhau. Bà vừa làm cha vừa làm mẹ hai đứa. Đó là chuỗi ngày bà vắt kiệt nước mắt, sức lực để nuôi 2 cháu khôn lớn.
Nỗi buồn rồi cũng nguôi ngoai theo năm tháng. Hai cháu Luyến và Huyền đã học hết cấp hai, đẹp nết, đẹp người. Ngày đưa cháu về nhà chồng, trông bà như trẻ lại.
Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất. Bà tôi như mọc cánh bay lên. Bà sung sướng nói: “Các con ơi! Các cháu ơi! Đất nước đã sạch bóng quân thù. Chú Tương chúng mày sắp về rồi đó!”. Bà như nói một mình: “Vợ chồng sống bên nhau được hơn một tháng, rồi chia tay vào Nam đánh giặc. Suốt 11 năm trời đằng đẵng, vợ trông tin chồng, mong đến mòn mỏi mà vẫn tuyệt vô âm tín. Ông trời cũng không cho vợ chồng nó một đứa con. Tội nghiệp chúng nó”.
Gần 3 tháng sau, ngày 15/7/1975, gia đình nhận được giấy báo tử báo tin: Chú Trần Hữu Tương hi sinh vào tối 29/4/1975, tại bến Câu Lâu, sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam. Bầu trời quê tôi đổ sập xuống trái tim bà. Bà vẫn ngồi đó, tựa cửa ngóng về phương Nam như một pho tượng, không than thở một lời. Bà như hoá đá.
Bà qua đời ở tuổi 93, ấy là năm 1987. Con cháu tiếc thương bà vô hạn, vẫn như thấy bà còn sống bên cạnh con cháu. Hằng ngày, bà chống gậy, bước thấp, bước cao đến thăm cháu chắt. Bà đưa gậy gõ vào chum coi có còn gạo nữa không. Thấy kêu choong choong là bà giục: “Đến bà lấy gạo về cho con nó ăn đến mùa hãy đong cho bà”. Bà khuyên con cháu cố gắng học hành “Nhân bất học, bất tri lí”, “Có học mới thành tài, không có tài thì làm việc chi cũng khó”. Những lời quý báu ấy đã thắp sáng trí tuệ cháu con.
Còn nhớ, ngày giỗ đại tường năm 1988, tôi vừa cắm nén hương lên ban thờ bà, bỗng nhiên một mùi thơm ngào ngạt bao quanh ngôi nhà. Cả gian thờ rực sáng lên, bà ngồi trên một vầng ánh sáng, mắt rớm lệ. Một lúc sau, vầng sáng bỗng biến mất. Bà cưỡi đám mây bạc bay về trời.
Đến năm 2014, bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý “Bà Mẹ Việt Nam anh hùng”.
Huyền thoại bà là niềm tự hào muôn thuở cho chúng tôi hôm nay và muôn đời sau!