Ông tôi - tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước
Tâm sự 18/04/2024 09:15
Ông tôi sinh năm 1929, tại một làng quê ven biển yên bình của huyện Mỹ Đức xưa, nay là huyện Mộ Đức. Ông lớn lên khi đất nước đang bị giặc thù giày xéo. Từ nhỏ, ông đã nung nấu lòng căm hờn kẻ thù xâm lược. Ông sớm giác ngộ và đi theo cách mạng, tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, góp nửa đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thiêng liêng.
Ông tôi lớn lên cạnh biển nên rất giỏi đi thuyền và bơi lội. Đây chính là cơ duyên đưa ông đến với những đoàn tàu không số trong những năm đánh Mỹ ác liệt. Năm 1971, ông tôi được Cục Vận tải đường biển thuộc Bộ Giao thông vận tải cấp bằng Thuyền trưởng ven biển. Ông đã hướng dẫn nhiều chuyến tàu không số vào và ra tại vùng biển Quảng Ngãi an toàn, góp công lớn cho những đoàn tàu không số vào Nam thuận lợi.
Cả một đời theo Đảng, ông không ngại hiểm nguy, gian khó trước bất kì nhiệm vụ cách mạng nào được giao, nhất là trong những năm lèo lái những đoàn tàu không số tại vùng biển Quảng Ngãi. Ông được trao tặng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, cùng nhiều Huân, Huy chương cao quý của Đảng và Nhà nước. Về Đức Chánh, nhắc đến tên ông Nguyễn Thăng Văn, ai cũng nghĩ ngay đến một trong những người chiến sĩ được khen tặng nhiều thành tích cao quý nhất của xã.
Chiến tranh đi qua, ông trở về quê nhà Đức Chánh, làm một lão nông tri điền, vui vầy bên cháu con và ruộng vườn. Vẫn một tấm lòng sắt son với nước với dân của người lính Cụ Hồ, người thuyền trưởng năm xưa giờ đây lại tham gia Hội Cựu chiến binh và góp phần xây dựng phong trào cựu chiến binh tại địa phương. Ông có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Hội Cựu chiến binh xã, huyện. Bởi đó, năm 2004, ông tôi được Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam trao tặng Huy chương Cựu chiến binh Việt Nam. Đây là niềm vinh dự, tự hào của gia đình tôi nói riêng, bà con Đức Chánh nói chung. Còn với ông tôi, ông vẫn nói vui rằng, đây là minh chứng cho việc ông vẫn còn khỏe, còn yêu nước, còn đóng góp cho đất nước một chút công sức khi tuổi đã về chiều.
Từ nhỏ tôi lớn lên bên ông, trong vòng tay chở che và thương yêu của ông tôi. Mắt kém, chân yếu đi lại khó khăn mà lòng vẫn đau đáu trước những vấn đề lớn của nước nhà. Mỗi ngày ông đều mở thời sự, đọc báo để biết về tình hình đất nước. Nghe một thành tựu mới của đất nước đang từng ngày phát triển, ông vui mừng rạng rỡ. Nghe một vị quan chức vướng vòng lao lí vì tham nhũng, hối lộ, ông thở dài. Ông vẫn bảo, thời ông ai cũng chỉ biết chiến đấu cho đất nước, quê hương. Ai cũng vì nghĩa chung mà quên cả tình riêng. Vậy mà ngày nay, có những vị quan lại như thế. Họ có bao giờ nghĩ về những người nằm xuống cho đất nước hôm nay...
Những năm cuối đời, sức khỏe ông yếu dần. Khi biết trước quỹ thời gian của mình không còn nhiều nữa, ông dặn dò con cháu khi mình không còn, trên bia mộ phải khắc hình cờ đỏ sao vàng mà trọn đời ông đã sống và chiến đấu dưới lí tưởng của lá Quốc kì thiêng liêng. Năm 2014, ông tôi qua đời. Theo di nguyện của ông, gia đình tôi đã khắc lên bia mộ ông hình ảnh lá Quốc kì một cách trang trọng. Hẳn nơi thế giới của người hiền, ông tôi đã yên lòng. Vì suốt cuộc đời đã yêu nước thủy chung, trọn vẹn. Và tình yêu nước sâu lắng ấy ông đã trao gửi lại cho các lớp con cháu chúng tôi.
Mỗi khi nghĩ về ông, trong tôi lại hiện về bao kỉ niệm đẹp của những tháng năm êm đềm được ở bên ông, nghe ông kể chuyện những chuyến tàu không số huyền thoại, được ông dạy bảo về lẽ sống ở đời phải biết cống hiến cho đất nước, Nhân dân. Mỗi lần về quê tôi đều ra mộ viếng ông, nhìn biểu tượng ngôi sao vàng trên nền cờ đỏ nơi bia mộ ông, lòng tôi lại bồi hồi nhớ ông da diết và tự hào về ông. Lòng thầm hứa sẽ làm theo những lời ông dạy, để biết mình được hưởng hòa bình hạnh phúc hôm nay không được quên công ơn của những lớp cha ông đi trước; và phải làm gì cho đất nước để xứng đáng với truyền thống yêu nước hào hùng của cha ông.