Bên ông một thời
Tâm sự 27/03/2024 10:51
Ông nội tôi tên là Lê Đình Phin, ở xóm 4, Tiên Hòa, xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, có một thời gian dài làm Chủ nhiệm hợp tác xã. Ông là người liêm khiết, chính trực và sống rất trách nhiệm. Sau hai nhiệm kì làm Chủ nhiệm hợp tác xã, cuộc sống của gia đình ông bà tôi không có gì đổi khác. Ngày tôi lên 8 tuổi, ông nội đã ngoài 60. Ông có dáng người cao gầy, mái tóc hoa râm, khuôn mặt hiền từ, chòm râu bạc như cước, giọng nói truyền cảm, ấm áp. Đám bạn của tôi thời ấy đứa nào cũng quý, cũng thương ông giống như tôi vậy.
Ông nội tôi là một người rất khéo tay. Tuổi thơ của chúng tôi thời ấy chẳng có ti vi, cũng không có điện thoại. Thế nhưng, tôi lại được sống đúng với lứa tuổi của mình, được học tập, vui chơi, được sống hài hòa với thiên nhiên, được tận hưởng tình yêu thương bên người thân, bạn bè. Với tôi, những năm tháng tuổi thơ được ở bên ông chính là món quà vô giá, cả cuộc đời này, tôi sẽ chẳng bao giờ quên.
Ông bà nội tôi ở với vợ chồng bác cả. Nhà tôi cách nhà bác chừng một cây số. Mỗi lần xuống nhà tôi thăm con thăm cháu, ông thường mặc bộ quần áo kaki cũ màu xanh bạc, chân ông đi dép cao su, tay ông chống gậy (cây gậy trúc chính tay ông làm). Lúc nào ông cũng hỏi thăm, động viên tôi học tập. Mỗi khi tôi đạt điểm cao, ông lại thưởng cho tôi khi thì bì kẹo sắn, thanh bỏng cốm; khi thì quả ổi, quả na hái. Trong trái tim của cô bé lên 8 là tôi ngày ấy, ông nội giống như ông Bụt, ông Tiên trong những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ vẫn thường hay kể.
Tôi nhớ nhất món quà là những hòn đá Lèn (hòn đá có nhiều cạnh màu sáng trong lấp lánh) ông lấy từ ngoài hang hiểm về cho tôi - món quà mà biết bao đứa trẻ ở quê tôi bấy giờ luôn ao ước có được. Tôi nâng niu món quà ông tặng như báu vật và gìn giữ cẩn thận suốt tuổi thơ.
Tôi nhớ những buổi chiều quê được thong dong trên đê làng cùng ông. Ông dạy tôi cách làm diều giấy. Ông dạy tôi cách thả diều. Tôi mải mê ngắm nhìn cánh diều no gió, thỏa sức gửi gắm những ước mơ sáng ngần đẹp đẽ... Ông nội khi ấy, với đôi mắt ngời sáng, nụ cười hiền hậu trìu mến nhìn tôi động viên “Cháu hãy cố gắng học tập, mai này lớp lên sẽ được bay cao bay xa như cánh diều này”. Tôi nhìn ông, nở nụ cười rạng rỡ, lòng ngập tràn lời hứa, quyết tâm.
Tôi nhớ những ngày lon ton theo ông nội đi chăn bò, rong ruổi trên khắp đồng làng, mương làng. Đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ, còn tôi thì được ông dạy cho biết bao điều lí thú về cỏ cây hoa lá. Từ những câu chuyện về cây lúa đến vô số những cỏ hoa đồng nội, cả câu chuyện về cây rau má - loài cây dân dã, thức ăn “cứu đói” một thời giờ trở thành “sâm” của người dân xứ Thanh quê tôi… Những câu chuyện ông kể khiến tôi được khai sáng. Tôi nhận ra, nếu ở trường, nhờ thầy cô, tôi hiểu thêm về kiến thức sách vở thì ở nhà, nhờ ông nội, tôi được mở mang thêm nhiều kiến thức cuộc sống. Trong niềm hạnh phúc ngập tràn, tôi đem khoe chúng bạn với tất cả lòng tự hào, kiêu hãnh.
Tôi nhớ nhất những ngày Hè, dưới bóng râm cây trứng gà trong vườn nhà ông bà nội, ông đã kể cho tôi và đám bạn tôi nghe rất nhiều chuyện lịch sử của làng, về Thành hoàng làng, về những người anh hùng sinh ra từ làng, những người còn sống, những người đã khuất,… Trong tôi khi ấy, bỗng hiện lên một nỗi lo sợ vẩn vơ, một ngày nào đó ông cũng sẽ không còn ở bên chúng tôi nữa. Tôi vòng tay ôm chặt người ông, ngắm nhìn gương mặt hiền từ của ông rồi thủ thỉ: “Ông ơi, ông mãi ở bên cạnh chúng cháu, ông nhé!”. Xoa đầu tôi, ông cười hiền: “Ông sẽ không đi đâu cả. Ông sẽ mãi ở đây, bên các cháu, bên mọi người, trong làng mình”.
Tôi nhớ những ngày ông bị ốm, phải nằm điều trị tại trạm xá xã. Dù biết sức khỏe của mình ngày một yếu dần, nhưng trước mặt mọi người, ông vẫn cố gắng vui để ai nấy an tâm. Ông bảo, “Sinh lão bệnh tử” là chuyện thường tình. Ông già rồi nên đau bệnh cũng là lẽ đương nhiên. Không phải buồn gì cả”. Bà nội ngồi bên, nắm tay ông, khóc sụt sùi. Bố mẹ tôi, các cô, các bác tôi cũng khóc vì thương ông. Cả cuộc đời mình, ông đã sống tận tụy, trách nhiệm, yêu thương. Vậy mà…
Khi hay tin trạm xá cho ông về nhà vì không thể tiếp tục điều trị nữa, mẹ tôi đã hớt hơ hớt hải nắm tay tôi, bước thấp bước cao chạy ra khỏi nhà. Vừa xuống đường cũng vừa kịp gặp bác và bố đưa ông về. Mẹ khóc thành tiếng, gọi “Thầy ơi”. Tôi chạy chân trần, tay níu áo mẹ, miệng cũng thất thanh gọi “Ông ơi!”.
Hôm ấy là ngày 15/12 âm lịch năm Tân Dậu (1991), sân nhà bác tôi chật kín người. Các ông bà, cô bác, họ hàng, làng xóm... đều có mặt. Ai nấy mắt đỏ hoe, buồn bã. Rồi tiếng khóc vật vã của bố tôi vọng ra từ gian nhà tranh, nơi ông nằm. Sau đó là bà, là các bác, các cô, là mẹ tôi… ai cũng khóc. Tôi ngồi ở một góc sân, bèn đứng bật dậy, len qua đám đông vào nhà. Trên chiếc giường tre đã ọp ẹp, ông nằm thảnh thơi như đang ngủ. Tôi chạy đến bên, gọi ông nhưng ông không trả lời. Mẹ liền kéo tay tôi ra ngoài, mắt mẹ ừng ực nước, giọng mẹ đứt quãng: “Ông… mất rồi”. Tôi càng khóc to hơn. Tôi không tin lời mẹ nói “Không phải, ông không chết. Mẹ đừng nói vậy. Ông hứa sẽ mãi ở bên chúng ta kia mà. Sao ông lại thất hứa...”. Mẹ ôm chặt tôi vào lòng, mặc cho nước mắt cứ thế rơi.
Thấm thoắt đã hơn 30 năm, ông đi xa. Tôi lớn lên học tập, lập nghiệp xa nhà. Lần nào về quê, tôi cũng đến viếng mộ ông, thắp nén nhang thơm, ngồi thủ thỉ với ông đủ chuyện vui buồn thật lâu. Vì tôi biết, ông vẫn luôn dõi theo, phù hộ, che chở cho tôi… Bỗng có cơn gió mát lành từ đâu thổi tới. Tôi cảm nhận được, ông đang ở bên tôi, lúc này…