Nhiều căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm bản án, để bảo vệ quyền lợi cho người cao tuổi
Pháp luật - Bạn đọc 07/02/2023 09:17
Theo nội dung Bản án số: 87/2020/DS-PT ngày 23/6/2020 của TAND tỉnh An Giang, giải quyết “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ”, giữa nguyên đơn: Ông Vũ Xuân Quang, sinh năm 1943, bà Nguyễn Thị Xuân, sinh năm 1946, cùng ngụ tại 42A/67, khóm Trung Hưng, phường Mỹ Thới, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang; bị đơn: Bà Vũ Thị Lếnh, sinh năm 1945; ngụ tại 52A/21, khóm Trung An, phường Mỹ Thới, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang và ông Hồ Ngọc Trác, sinh năm 1929 (chết năm 2009). Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trác là các ông: Hồ Ngọc Sơn, Hồ Ngọc Trường, ông Hồ Ngọc Đông vàông Hồ Ngọc Nam.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND TP Long Xuyên; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Đơn xin sang nhượng thành quả lao động” ngày 24/11/1995, được HĐXX của 2 cấp Tòa án coi là “Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ”. |
Tại Tòa, đại diện nguyên đơn trình bày: Ngày 7/11/1995, vợ chồng ông Trác, bà Lếnh thoả thuận sang nhượng cho vợ chồng ông Quang, bà Xuân 220m2 đất ruộng (2L) với giá 4 lượng 2 chỉ vàng 24K; sau khi bên mua giao vàng thì bên bán sẽ tách QSDĐ cho bên mua. Ngày 24/11/1995, ông Trác và ông Quang kí “Đơn xin sang nhượng thành quả lao động” (Có chứng thực của UBND xã Mỹ Thới). Ngày 12/12/1995, ông Trác, bà Lếnh nhận đủ số vàng theo thoả thuận. Ông Quang, bà Xuân khởi kiện yêu cầu bà Lếnh và những đồng thừa kế của ông Trác tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 24/11/1995 và có trách nhiệm tách thửa sang tên cho bà Xuân, ông Quang đứng tên QSDĐ; tháo dỡ di dời vật kiến trúc và cây cối trên đất, giao phần đất đã chuyển nhượng cho ông Quang, bà Xuân.
Tại Phiên tòa sơ thẩm, bị đơn (bà Lếnh) cho rằng, tất cả đều là giả mạo chữ kí và chữ viết của bà, yêu cầu giám định nhưng không đồng ý nộp chi phí giám định, Tòa án muốn làm gì thì làm, bà chỉ có yêu cầu như vậy. Bà Lếnh và người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trác không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Quang, bà Xuân.
Bản án số 79/2019/DS-ST, ngày 25/11/2019 của TAND TP Long Xuyên, xử: “Công nhận Hợp đồng chuyển QSDĐ ngàỵ 24/11/1995 giữa ông Quang, bà Xuân và ông Trác, bà Lếnh có chứng thực của UBND xã Mỹ Thới số 442/UB ngày 25/11/1995. Buộc bà Lếnh và những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Trác có trách nhiệm tách thửa sang tên, giao cho ông Quang, bà Xuân phần đất có 220m2; có trách nhiệm tháo dỡ di dời 4 cây chuối, 1 cây vú sữa, 1 mái che chiều ngang 4,48m X dài 4,2m = 18,82m2 (theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 9/1/2018) để giao đất cho ông Quang, bà Xuân. Ông Quang, bà Xuân liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 220m2 nêu trên; thanh toán cho bà Lếnh và những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Trác số tiền 10 triệu đồng.
Ngày 6/1/2020, bà Vũ Thị Lếnh kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Bản án số 87/2020/DS-PT ngày: 23/6/2020 của TAND tỉnh An Giang, xử: Không chấp nhận kháng cáo của bà Lếnh; sửa Bản án sơ thẩm số 79/2019/DS-ST, ngày 25/11/2019 của TAND TP Long Xuyên; công nhận Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Trác, bà Lếnh và ông Quang, bà Xuân thể hiện qua “Đơn xin sang nhượng thành quả lao động” ngày 24/11/1995.
Nhiều căn cứ để cấp trên kháng nghị giám đốc thẩm
Một, Hội đồng xét xử (HĐXX) phiên tòa phúc thẩm công nhận có việc chuyển nhượng QSDĐ, nhưng chưa đăng kí vào sổ địa chính, nên chưa có hiệu lực. Tại thời điểm khởi kiện, Luật Đất đai năm 2003 đã có hiệu lực pháp luật nên được áp dụng theo luật này.
Hai, HĐXX phiên tòa phúc thẩm nhận định: “Việc chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Trác và ông Quang thực hiện ngày 7/11/1995, nên được áp dụng Luật Đất đai năm 1993 để giải quyết”; và “Công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Trác, bà Lếnh và ông Quang, bà Xuân thể hiện qua “Đơn xin sang nhượng thành quả lao động” ngày 24/11/1995”. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 1993 không có nội dung nào quy định: “Đơn xin sang nhượng thành quả lao động” ngày 24/11/1995, được coi là “hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Trác, bà Lếnh và ông Quang, bà Xuân”. Trong khi, HĐXX phiên tòa phúc thẩm đều biết: Luật Đất đai năm 1993 quy định việc chuyển nhượng QSDĐ phải được lập bằng hợp đồng theo mẫu của Tổng cục Địa chính, nên việc coi “Đơn xin sang nhượng thành quả lao động” ngày 24/11/1995 là “hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ” là thiếu căn cứ!
Ba, trong “Đơn xin sang nhượng thành quả lao động” ngày 24/11/1995”, không thấy có nội dung nào về tên và chữ kí của bà Lếnh (thể hiện bà Lếnh không được tham gia việc sang nhượng thành quả lao động chung có được trên đất hợp pháp của 2 vợ chồng). Tuy nhiên, tình tiết này của vụ án cũng chưa được cả 2 cấp tòa án xem xét, giải quyết.
Và HĐXX phiên tòa phúc thẩm “công nhận Hợp đồng chuyển QSDĐ ngàỵ 24/11/1995, giữa ông Quang, bà Xuân và ông Trác, bà Lếnh”. Trong khi hồ sơ vụ án không có Hợp đồng chuyển QSDĐ ngàỵ 24/11/1995(!?).
Nguyện vọng của người cao tuổi
Trao đổi với phóng viên Tạp chí Người cao tuổi, bà Vũ Thị Lếnh bức xúc: “Tôi khẳng định “Đơn xin sang nhượng thành quả lao động” ngày 24/11/1995 có nhiều dấu hiệu là giả mạo. Cụ thể: Địa chỉ ghi trong đơn không đúng với địa chỉ của ông Trác; không ghi số Chứng minh Nhân dân của ông Trác; và có điều quan trọng nữa là không có tên của tôi - Vũ Thị Lếnh (vợ ông Trác) có quyền, lợi ích hợp pháp đối với thành quả lao động sang nhượng ghi trong hợp đồng. Nay tôi mong được Tạp chí Người cao tuổi là cơ quan của Hội Người cao tuổi Việt Nam, diễn đàn của người cao tuổi cả nước xem xét, phản ánh sự việc của gia đình tôi, để được Tòa án cấp trên không chấp nhận việc ông Vũ Xuân Quang kiện chúng tôi”.
Điều 24 Luật Người cao tuổi năm 2009 quy định: “1. Nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp sau đây để người cao tuổi phát huy vai trò phù hợp với khả năng của mình: a) Tạo điều kiện để người cao tuổi được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với cơ quan, tổ chức về những vấn đề mà người cao tuổi quan tâm”. Tạp chí Người cao tuổi trân trọng kiến nghị các cơ quan bảo vệ pháp luật có thẩm quyền xem xét, giải quyết nguyện vọng của bà Vũ Thị Lếnh, có quyết định kháng nghị đối với Bản án số: 87/2020/DS-PT ngày 23/6/2020 của TAND tỉnh An Giang.