Người cao tuổi mong chờ phán quyết của Chánh án TAND Tối cao

Pháp luật - Bạn đọc 26/05/2025 18:27
Đất tranh chấp (1.500m2 đất ở và 1.000m2 đất thổ mộ) do ông, bà nội của ông Hiệp là cụ Vương Văn Kiêm và cụ Võ Thị Phấn mua năm 1928. ông Hiệp được thừa hưởng sử dụng, đăng kí, được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ năm 1993.
Bị đơn cụ Nem, cụ Tám có đơn phản tố yêu cầu: Hủy 1 phần Giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông Hiệp; công nhận phần đất 1.482,3m2 trong đất trên thuộc quyền sử dụng của 2 cụ và 516,2m2 đất thổ mộ (có 16 ngôi mộ) thuộc sở hữu chung của dòng họ, vì đất do tổ tiên Vương Văn Để để lại cho con cháu.
Bản án số: 16/2022/DS-ST ngày 1/7/2022 của TAND tỉnh Tây Ninh, nhận định: Đất tranh chấp do cụ Kiêm mua, ông Hiệp là người hưởng. Năm 1993, ông Hiệp được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ là có căn cứ. Ông Hiệp khởi kiện là có cơ sở. Hiện nhà cụ Tám đã sập, di dời sống chung với con, cháu. Cụ Nem sống một mình không có chồng, con; cụ Nem tuổi cao, nên để cho cụ Nem tiếp tục ở là có căn cứ pháp luật và phù hợp đạo đức xã hội.
Đối với yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông Hiệp, công nhận 1.482,3m2 thuộc quyền sử dụng của cụ Nem, cụ Tám: Văn bản ngày 6/12/2020 của UBND thị xã Trảng Bàng thể hiện ông Hiệp được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ 1.501m2 đúng quy định pháp luật. Do đó, không có căn thực hiện yêu cầu;
![]() |
Ông Hiệp chỉ về phía căn nhà đang tranh chấp với cụ Nem. |
Đối với yêu cầu công nhận 516,2m2 đất thổ mộ là tài sản thuộc sở hữu chung của dòng họ: Toàn bộ diện tích đất tranh chấp đều do cụ Kiêm tạo lập, có cho những người trong dòng họ được chôn cất; và ông Hiệp có cho chôn cất thêm một số người trong dòng họ. 516,2m2 là đất CDK (thổ mộ) ông Hiệp vẫn còn đứng tên trên Giấy chứng nhận QSDĐ ngày 19/5/1993, nên không có căn cứ thực hiện yêu cầu.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc cụ Tám di dời các tài sản trên đất; cụ Nem được quyền sinh sống trên đất của ông Hiệp đến cuối đời. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của cụ Nem, cụ Tám; giao cho ông Hiệp tiếp tục quản lí phần đất 516,2m2 thổ mộ.
TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh có Bản án phúc thẩm số: 179/2023/DS-PT ngày 12/4/2023, xử: Hủy án sơ thẩm; chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm lại.
Bản án số 38/2024/DS-ST ngày 12/9/2024 của TAND tỉnh Tây Ninh xử sơ thẩm lần 2, phủ nhận bản án sơ thẩm lần 1.
Nguyện vọng của người cao tuổi
Ông Hiệp bức xúc: “Tờ bán đất thổ ngày 10/6/1928 thể hiện: 1.500m2 đất hạng 2; 1.000m2 đất hạng 1, có tứ cận được quan thời Pháp (Thị trưởng) kí xác nhận; nay đối chiếu với vị trí, diện tích đất phù hợp với hiện trạng đất tranh chấp.
Cụ Nem, cụ Tám không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất; 2 cụ không kê khai, đăng kí cấp Giấy chứng nhận QSDĐ; trong khi tôi - Hiệp kê khai, đăng kí và được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ năm 1993 và cấp đổi năm 2003, cụ Nem, cụ Tám không có ý kiến, khiếu nại gì.
Mặt khác, theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và lời khai của các đương sự, thể hiện phần đất cụ Nem, cụ Tám tranh chấp có hàng rào xung quanh và có chung 1 cổng rào do tôi dựng từ năm 2015, nhưng cụ Nem, cụ Tám biết mà không có ý kiến, tranh chấp gì.
![]() |
Phường Gia Bình xác nhận phần đất ông nội ông Hiệp mua trùng khớp với phần đất ông Hiệp đang quản lí, sử dụng. |
Ông nội tôi có giấy tờ mua đất, ông bà, cha mẹ, tôi đều sinh sống trên phần đất này từ xưa đến nay. Gia đình tôi cho cụ Nem, cụ Tám ở nhờ, và còn cho một số người ngoài ở nhờ, có chôn cất trên phần đất này. Tôi kê khai, đóng thuế, được cấp sổ nhiều lần. Trong khi đó, cụ Tám, cụ Nem không có giấy tờ gì, không làm nghĩa vụ gì, đi ở nhờ lại tự dưng được tòa tuyên là có đất (!?). Từ chỗ gia đình tôi cho ở nhờ khoảng hơn 100m2 thì tòa lại tuyên họ được hơn 1.000m2, thử hỏi công lí ở đâu?
Hội đồng xét xử (HĐXX) phiên tòa sơ thẩm lần 2 chưa làm rõ: Vì sao cụ Nem, cụ Tám nói đây là đất do tổ tiên các cụ để lại nhưng lại không có giấy tờ chứng minh? Đất tổ tiên để lại nhưng các cụ không đi kê khai? Trong khi các cụ lại biết đi kê khai những khu đất của gia đình mình ở nơi khác? Nếu cho rằng, trên phần đất đó có mộ của ông Vương Văn Để (ông cố nội của ông Hiệp và là ông ngoại của cụ Tám, cụ Nem) để khẳng định đất này do cụ Để để lại, là thiếu căn cứ. Vì đất này cụ Kiêm (con trai cụ Để mua năm 1928) và khi cụ Để mất thì cụ Kiêm với tư cách là con trai, đã chôn cất cha mình, đó là sự hiếu thảo, chứ không nên coi đất của ông Để nên mới được chôn ở đây. Việc chôn cất này còn được thể hiện gia đình cụ Kiêm rất nhân văn khi đồng ý cho phép một số người họ hàng lẫn làng xóm chôn cất. Nếu là đất tổ tiên thì tất cả những người trong họ hàng dòng tộc đều được chôn, nhưng ở đây là đất riêng của ông Hiệp nên việc chôn cất đều phải có sự đồng ý của ông Hiệp, điều này có nhiều người làm chứng.
Việc căn cứ Biên bản xác minh ngày 1/8/2024 của UBND phường Gia Bình cho rằng, không thể tiến hành so sánh hiện trạng, vị trí đất của Tờ bán đất năm 1928 với vị trí đất tranh chấp được. Vì bản đồ không ảnh được phê duyệt năm 1984, bản đồ 2000 được phê duyệt năm 2002 nên không có cơ sở để so sánh vị trí tứ cận trong Tờ bán đất lập ngày 10/6/1928 để kết luận không có căn cứ phần đất này do cụ Kiêm mua, là thể hiện thiếu khách quan. Bởi, hồ sơ có xác nhận của chính quyền địa phương: Đủ thủ tục cấp sổ cho ông Hiệp qua các thời kì, cũng như nguồn gốc đất này được ông Hiệp thừa kế từ ông nội. TAND tỉnh Tây Ninh phủ nhận xác nhận của UBND phường Gia Bình và các cơ quan khác, để biến người cho ở nhờ thành người ở nhờ, là không khách quan.
Tôi và gia đình mong chờ công lí sẽ được thực thi thể hiện ở phiên tòa phúc thẩm tới đây được xét xử khách quan, đúng pháp luật”.
Luật sư Hoàng Ngọc Quý, Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho rằng: Cấp phúc thẩm lần 2 sẽ xem xét giải quyết vụ án khách quan, toàn diện nhất để có phán quyết công tâm, đúng quy định của pháp luật. Giấy tờ mua bán của ông nội ông Hiệp năm 1928 là hợp pháp và không thể phủ nhận. Suốt nhiều đời, gia đình ông Hiệp sinh sống ổn định, quản lí, sử dụng khu đất này và có kê khai, đóng thuế, được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cách đây hơn 30 năm, nhưng cụ Nem, cụ Tám không hề có ý kiến, khiếu nại gì. Hơn nữa, việc ở nhờ còn được thể hiện là hai cụ không hề có nguồn nước vì ông Hiệp không cho đào giếng, mà phải nhờ vào nguồn nước của gia đình ông Hiệp. Ông Hiệp cũng không cho mở lối đi riêng, mà cho đi nhờ cùng 1 lối đi với gia đình ông Hiệp, v.v.
Thực hiện Điều 5 Luật Người cao tuổi năm 2009, Tạp chí Người cao tuổi trân trọng kính đề nghị TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh (HĐXX phiên tòa phúc thẩm lần 2, dự kiến xét xử ngày 29/5/2025), xem xét, giải quyết nguyện vọng của người cao tuổi là ông Vương Văn Hiệp bằng một bản án khách quan, đúng pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các đương sự trong vụ án.