Văn phòng Chủ tịch nước yêu cầu giải quyết dứt điểm khiếu nại của gia đình cụ Phạm Thị Bông
Pháp luật - Bạn đọc 03/08/2022 17:04
Những nội dung chính đã phản ánh
Vì đất cho thuê đã nhận lại từ năm 1970, nhưng bị coi là đất cho thuê đến năm 1975, khiến gia đình cụ Bông khiếu nại liên tục; và Thanh tra Chính phủ đã có kết luận, kiến nghị Chủ tịch UBND quận 9 (nay là TP Thủ Đức) và Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh giải quyết khiếu nại của cụ Bông.
Nội dung khiếu nại: Cụ Phạm Thị Bông và chồng là cụ Hà Văn Nhuận cùng cụ Hà Văn Tô (anh cụ Nhuận) mua thửa đất số 132-133 ruộng lúa, tờ thứ 4, đo năm 1937, mua bán có vi chứng của Cơ quan hành chánh xã Long Bình ngày 28/8/1965. Ngày 28/10/1972, sao lục trích sao giải thửa cấp cho cụ Hà Văn Nhuận theo đơn trưng cầu, thửa đất số lô 132, tờ thứ 4, diện tích 2ha 33a 00ca.
Ngày 24/6/1970, chủ ruộng là cụ Tô và cụ Nhuận cùng 2 người thuê đất là ông Đỗ Văn Khương và ông Nguyễn Văn Tang lập “Tờ giao kết hoàn lại ruộng đất”, có nội dung: “Theo khế ước hết năm 1970 là mãn hạn và hoàn trả lại ruộng đất cho chủ”; ông Khương và ông Tang đã vi chứng trước mặt Xã trưởng Ủy ban hành chính xã Long Bình là ông Huỳnh Văn Hương.
“Tờ giao kết hoàn lại ruộng đất” ngày 24/6/1970 |
Sau năm 1975, cụ Bông đưa đất trên vào tập đoàn. Khi tập đoàn giải thể, cụ Bông và cụ Nhuận có đơn xin lại ruộng đất. Các cơ quan chức năng của TP Hồ Chí Minh có văn bản chỉ đạo giải quyết: Văn bản số 947/GR-TTPG của Ban Quản lí ruộng đất TP Hồ Chí Minh ngàv 12/9/1987 gửi huyện Thủ Đức; Ban Tiếp công dân thành phố có Văn bản số 16243XTK-TP ngày 29/4/1994 gửi huyện Thủ Đức; Thanh tra Sở Địa chính có Văn bản số 1808/XL ngày 3/11/1997 gửi UBND quận 9.
Phường Long Bình ban hành 3 văn bản, 1 quyết định, trả lời lí do đất xóa tô chia theo chính sách đất đai, kết luận không giải quyết (Văn bản số 02/VC-UB ngày 23/2/1993, do ông Phạm Thái Công, Phó Chủ tịch UBND phường kí quy kết đất xóa tô; Văn bản số 95/1999/CV-UB do ông Nguyễn Thành Tuấn, Chủ tịch UBND phường kí quy kết đất xóa tô; Văn bản số 256/UBND ngày 12/12/1994, do ông Nguyễn Văn Quên, Chủ tịch UBND phường kí lí do đất chia theo chính sách đất đai; Quyết định số 261/QĐ-UBND ngày 1/8/2016 của Chủ tịch Nguyễn Gia Hưng kí, lí do đất chia theo chính sách đất đai).
Không đồng ý với các kết luận và văn bản trên, cụ Bông tiếp tục khiếu nại.
Đất ruộng của gia đình cụ Bông quản lí, không phải đối tượng Nhà nước quản lí, thu hồi sau ngày 30/4/1975
Quyết định số 26l/QĐ-UBND ngày 1/8/2016 của UBND phường Long Bình nêu (trích): “Phần đất cụ Bông yêu cầu giải quyết trả lại đất cho gia đình cụ có diện tích khoảng 18.144,0m2. Trước năm 1975 gia đình cụ Bông có cho các hộ nông dân thuê đất canh tác, không trực tiếp sử dụng”.
Tuy nhiên, tại “Tờ giao kết hoàn lại ruộng đất” ngày 24/6/1970, có nội dung thể hiện: Chủ ruộng là cụ Tô và cụ Nhuận cùng 2 ông Khương và ông Tang cam kết: “Theo khế ước hết năm 1970 là mãn hạn và hoàn trả lại ruộng đất cho chủ”. Thực tế, khi khế ước năm 1970 mãn hạn, gia đình cụ Bông đã nhận lại đất và trực tiếp quản lí sử dụng, rồi mới đưa vào tập đoàn. Như vậy, kể từ sau năm 1970 đến ngày 30/4/1975, gia đình cụ Bông đã không có đất cho thuê. Thực tế này cho thấy, toàn bộ phần đất ruộng của gia đình cụ Bông tại “Tờ giao kết hoàn lại ruộng đất” trên, không phải là đối tượng bị Nhà nước quản lí, thu hồi theo quy định về chính sách đất đai của Nhà nước sau ngày 30/4/1075.
Dấu hiệu làm sai lệch nguồn gốc, quá trình sử dụng đất
Từ những tình tiết trong hồ sơ vụ việc nói trên, cho thấy việc không giải quyết dứt điểm việc trả quyền sử dụng đất hợp pháp của cụ Bông, là thể hiện không xem xét đến thực tế sau năm 1970 đến năm 1975, đất gia đình cụ Bông có sử dụng liên tục, được chứng minh bằng “Tờ giao kết hoàn lại ruộng đất” theo khế ước hết năm 1970 là mãn hạn và hoàn trả lại ruộng đất cho chủ; ông Khương và ông Tang đã vi chứng trước mặt Xã trưởng Ủy ban hành chính xã Long Bình Huỳnh Văn Hương ngày 24/6/1970; và sau đó gia đình cụ Bông nhận lại đất, sử dụng đất liên tục, có đóng ủng hộ cho Ban Kinh tài Thủ Đức (biên nhận số 413 ngày 5/10/1973). Đến sau năm 1975, gia đình cụ Bông góp đất vào hợp tác xã. Khi hợp tác xã tan rã, không trả đất cho gia đình cụ Bông mà còn ra những điều không có thật, làm sai lệch hồ sơ nguồn gốc quá trình sử dụng đất, để coi đất gia đình cụ Bông đang sử dụng hợp pháp là đất thuộc diện xóa tô, là dấu hiệu thể hiện việc làm chưa đúng quy định của pháp luật về quản lí đất đai.
Trong khi, điểm a, Khoản 1, Điều 5 Nghị định 64 năm 1993, đất của gia đình cụ Bông mua có giấy tờ hợp pháp, bà Hà Thị Nguyên (con gái cụ Bông) và chồng là ông Lê Thanh sử dụng 5.216m2 trong tổng diện tích 23.360m2; đất đang do gia đình cụ Bông sử dụng không vượt quá 30.000m2 (3ha). Mặt khác, việc lấy đất hợp pháp của gia đình cụ Bông để chia là vi phạm Điều 26 Luật Đất đai và Khoản 2 và 3 Điều 10, Nghị định số 64. Chưa hết, trong Quyết định số 261/QĐ-UBND nói trên, có nêu: “Xuyên suốt trong các văn bản, lấy đất hợp pháp của cụ Bông chia theo chính sách đất đai”. Vậy chính sách đất đai này theo văn bản cụ thể nào, do cơ quan nào ban hành? Có điều khoản nào của pháp luật quy định đất của gia đình cụ Bông có nguồn gốc rõ ràng nói trên là đất xóa tô?
Văn phòng Chủ tịch nước và nhiều cơ quan yêu cầu giải quyết dứt điểm khiếu nại của gia đình cụ Nguyễn Thị Bông
Gia đình người cao tuổi là cụ Nguyễn Thị Bông đang buộc phải có đơn tố giác, phản ánh về việc giải quyết khiếu nại bằng sự “im lặng”. Trong khi, có rất nhiều văn bản chỉ đạo, phiếu chuyển từ Văn phòng Chủ tịch nước, các cơ quan chức năng ở Trung ương và TP Hồ Chí Minh về giải quyết dứt điểm khiếu nại của cụ Bông. Cụ thể:
Văn bản số: 61/VKSTC-V12 ngày 26/7/2022 về việc xử lí đơn của ông Lê Thanh của Viện KSND Tối cao, gửi Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh. |
Một, Phiếu chuyển số 853 /PC-TTTP ngày 6/11/2020, của Thanh tra TP Hồ Chí Minh gửi Chủ tịch UBND quận 9, có nội dung:
Thanh tra thành phố nhận được đơn đề ngày 19/10/2020 của ông Lê Thanh (con rể cụ Bông), cư trú tại 1016 Nguyễn Xiển, tổ 5, khu phố Bến Đò, phường Long Bình, quận 9 (do Dịch vụ Bưu chính chuyển đến) với nội dung, khiếu nại UBND quận 9 không xem xét, giải quyết khiếu nại của ông đúng quy định của pháp luật.
Xét nội dung đơn và căn cứ kết quả trao đổi, làm việc với đại diện UBND quận 9 ngày 4/11/2020, Thanh tra thành phố chuyển đơn nêu trên đến Chủ tịch UBND quận 9 để xem xét, trả lời công dân theo quy định và thông tin kết quả giải quyết cho Thanh tra thành phố. (Đính kèm bản chính đơn gửi đến Thanh tra thành phố ngày 22/10/2020 cùng các tài liệu đã gửi kèm theo đơn).
Hai, Phiếu chuyển đơn số 487/PCD-VP ngày 11/11/2020, của Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và HĐND TP Hồ Chí Minh, gửi Thường trựcHĐND) quận 9, có nội dung:
Ban Pháp chế HĐND TP Hồ Chỉ Minh nhận được đơn khiếu nại của ông Lê Thanh. Nội dung: “Khiếu nại Chủ tịch UBND quận 9 không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đối với đơn khiếu nại ngày 4/2/2020 gửi UBND quận 9 khiếu nại không giải quyết yêu cầu xin công nhận 1.000m2đất ở đô thị không thu tiền sử dụng đất, mà không có lí do chính đáng.
Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 và thực hiện ý kiến của Ban Pháp chế HĐND TP, Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND TP chuyển đơn thư trên đến Thường trực HĐND quận 9 giám sát vụ việc theo thẩm quyền, tổ chức tiếp dân và trả lời đơn cho ông Lê Thanh được biết; đồng thời, thông tin kết quả giải quyết sự việc cho Thường trực HĐND TP trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày vụ việc được giải quyết”.
Ba, Giấy báo số 18-GB/BNCTƯ ngày 26/1/2021, của Ban Nội chính Thành ủy TP Hồ Chí Minh, gửi ông Lê Thanh, có nội dung: “Ngày 18/12/2020, ông có đơn gửi đến đồng chí Bí thư Thành ủy, với nội dung: Khiếu nại UBND quận 9 vi phạm pháp luật, không giải quyết khiếu nại của ông theo quy định của Luật Khiếu nại. Căn cứ quy định của Ban Thường vụ Thành ủy, Ban Nội chính Thành ủy đã có Công văn số 159-CV/BNCTƯ ngày 26/1/2020 chuyển đơn của ông đến UBND TP Hồ Chí Minh để xem xét, giải quyết. Ban Nội chính Thành ủy báo tin và đề nghị ông liên hệ Ban Tiếp công dân thành phố (tại số 15 Nguyễn Gia Thiều, phường 6, quận 3) để theo dõi kết quả giải quyết”.
Bốn, Văn bản số 99 /PC-ĐĐBQH về việc chuyển đơn của công dân ngày 14/2/2022 của Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh, gửi Chủ tịch UBND TP Thủ Đức. Theo đó, Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh nhận được đơn của ông Lê Thanh, nội dung: Khiếu tố về hành vi vi phạm pháp luật, không ra quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại, làm ảnh hường đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (nội dung trình bày cụ thể trong đơn).
Căn cứ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh chuyển đơn của ông Lê Thanh đến Chủ tịch UBND TP Thủ Đức xem xét, giải quyết theo thẩm quyền, trả lời công dân và thông báo kết quả đến Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh (số 2Bis Lê Duẩn, phường Bến Nghé, quận 1).
Năm, Văn bản số 814/TCH-XLĐ về việc xử lí đơn, ngày 31/3/2022 của Ban Tiếp công dân TP Thủ Đức, gửi Thanh tra TP Thủ Đức, có nội dung: Ban Tiếp công dân TP Thủ Đức nhận đơn của ông Lê Thanh, nguồn đơn: Phiếu chuyển số 99/PC-ĐĐBQH ngày 14/2/2022 của Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh, sổ theo dõi: 1733 ngày 17/2/2022 của UBND TP Thủ Đức. Nội dung: Khiếu tố về hành vi vi phạm pháp luật không ra quyết định giải quyết khiếu nại theo quyđịnh của Luật Khiếu nại, làm ảnh hưởng đến quyền lợi và hợp pháp của công dân (nội dung theo đơn ghi ngày 8/12/2021). Thực hiện bút phê của Chủ tịch UBND TP Thủ Đức, Ban Tiếp công dân TP Thủ Đức chuyển đơn của ông Lê Thanh đến Thanh tra TP Thủ Đức thụ lí. Kết quả giải quyết, đề nghị Thanh tra TP Thủ Đức phúc đáp đến ông Lê Thanh và thông tin đến Ban Tiếp công dân TP Thủ Đức để tổng hợp báo cáo tháng, quý, năm đúng thời hạn quy định.
Sáu, Văn bản số 676/VPCTN-PL ngày 4/5/2022 về việc chuyển đơn thư của Văn phòng Chủ tịch nước gửi Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh, có nội dung: “Văn phòng Chủ tịch nước nhận được đơn của ông Lê Thanh, gửi đến Chủ tịch nước. Nội dung: Khiếu nại và tố cáo việc chính quyền và cơ quan chức năng vi phạm trong việc xem xét, giải quyết khiếu nại của ông Lê Thanh về thủ tục liên quan đến đo đạc và hồ sơ pháp lí công khai bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
Sau khi xem xét, Văn phòng Chủ tịch nước trân trọng chuyển đơn trên đến Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh để chỉ đạo xem xét, giải quyết theo quy định, trả lời đương sự và thông báo cho Văn phòng Chủ tịch nước biết kết quả để báo cáo Chủ tịch nước.
Bảy, Văn bản số 61/VKSTC-V12 ngày 26/7/2022, về việc xử lí đơn của ông Lê Thanh của Viện KSND Tối cao, gửi Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh, có nội dung: Viện KSND Tối cao nhận đơn của ông Lê Thanh (đơn gửi Đại biểu Quốc hội Lê Minh Trí, do Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh chuyển đến). Nội dung: Khiếu nại việc UBND quận 9 (cũ) nay là TP Thủ Đức không ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại đối với việc của ông Thanh liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi xem xét nội dung đơn, Viện KSND Tối cao nhận thấy: Đơn của ông Lê Thanh không thuộc thẩm quyền giải quyết. Theo quy định của pháp luật, Viện KSND Tối cao chuyển đơn của ông Lê Thanh đến Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh để xem xét, xử lí theo quy định.
Kiến nghị của người cao tuổi
Trao đổi với phóng viên Tạp chí Người cao tuổi, ông Lê Thanh, 70 tuổi, cho biết: “Tôi yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 261/QĐ-UBND ngày 1/8/2016 của UBND phường Long Bình vì có dấu hiệu vi phạm pháp luật và không có cơ sở để chia đất hợp pháp của gia đình cụ Bông cho người khác. Bởi lẽ: UBND phường Long Bình không đưa ra được văn bản nào quy định lấy đất hợp pháp của cụ Bôngđể đem chia theo chính sách đất đai qua các thời kì; và có cơ sở để coi là đất thuộc diện xóa tô.
UBND quận 9 ra Văn bản số 2785 ngày 30/10/2016, chỉ đạo phường Long Bình ra Quyết định số: 329/QĐ-UBND thu hồi hủy bỏ Quyết định số 261/QĐ-UBND ngày 1/8/2016; và ban hành Văn bản số 836/PTrĐ-BTCD trả đơn không thụ lí đơn khiếu nại của tôi. Nay, chúng tôi yêu cầu được tổ chức đối thoại theo quy định của Điều 39 Luật Khiếu nại: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại tiến hành đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ...”. Đối thoại để làm rõ nội dung khiếu nại theo yêu cầu của người khiếu nại;và kết quả đối thoại để làm căn cứ giải quyết khiếu nại. Thế mà, thật bất công là nguyện vọng đúng pháp luật này của chúng tôi chưa được xem xét, giải quyết dứt điểm”.