Ngôi nhà dưới chân núi Sim
Truyện ngắn 01/05/2025 09:30
- Thôi, thôi… mẹ không ăn được nữa đâu,…
- Mẹ cố thêm một thìa… chỉ đúng thìa này nữa thôi… Mẹ phải khoẻ để còn dạy cho con thằng Phần hát quan họ nữa chứ ạ…
- Gớm nữa, nói còn chửa xong, hát hò gì… Một thìa nữa thôi đấy, sao mà chị xúc thìa to thế!
Mẹ chồng chị nói thế thôi chứ chị biết bà mê hát quan họ hơn bất cứ thứ gì, bà bảo lúc hát như được gặp lại thầy tụi bây. Bà Hảo, mẹ chồng chị năm nay vừa tròn tám mươi, lưng còng, tóc bạc, da mồi, đi lại đã chậm chạp nhưng mắt bà vẫn tinh anh, và trí nhớ vẫn tinh tường, minh mẫn. Bà thường kể lại những câu chuyện ngày xưa… cho con cháu nghe, cũng như để nhắc mình luôn nhớ về một thời cùng cực, đau thương, mà thời gian có trôi đi bao lâu cũng không thể xoá nhoà trong kí ức của bà. Bà Hảo sinh ra và lớn lên ở một làng nhỏ bé nằm ven sông Đuống thơ mộng. Cũng như bao thiếu nữ lớn lên ở đây, bà được nghe những câu hát từ thưở nằm nôi, ngôn ngữ, ca từ như đã ngấm sâu vào từng tế bào, thớ thịt của bà, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong cộng đồng, vì vậy mà việc bà thuộc rất nhiều làn điệu và hát rất hay là điều đương nhiên, cứ như nguồn nước sông Đuống đã làm cho cánh đồng lúa phì nhiêu màu mỡ, và giọng hát ai được sinh ra ở nơi đây đều ngọt ngào trong trẻo và quyến rũ.
![]() |
Cái bà hơn các bạn cùng trang lứa là được đi học, vì ông bà nội bà là địa chủ. Lúc bà còn bé, trong nhà luôn có người ăn kẻ ở, các bạn còn mặc áo vá chằng vá đụp thì bà đã có áo the, quần lĩnh rất đẹp. Ấy thế nên cô Hảo càng lớn càng xinh đẹp nức tiếng cả vùng. Tuy ông bà nội là địa chủ, nhưng bố Hảo lại là ông giáo làng và sớm được giác ngộ cách mạng. Căn nhà năm gian bằng gỗ to nhất nhì làng Cả chính là nơi nuôi giấu cán bộ cách mạng. Cô Hảo cùng các chị em trong nhà thường may cờ đỏ sao vàng, giải truyền đơn cho cách mạng. Tuần lễ “vàng” của cả nước, gia đình ông giáo Lực ủng hộ rất nhiều tiền, vàng cho cách mạng, mở kho thóc chia cho dân nghèo trong làng, nên gia đình ông bà Lực được bà con rất qúy mến. Năm cô Hảo mười tám tuổi đã đem lòng quý mến một người cán bộ nằm vùng đang được nuôi giấu ngay trong nhà mình. Nhưng vì nhiệm vụ đặc biệt mà hai người chỉ dám thương thầm nhớ trộm nhau. Mỗi khi màn đêm buông xuống, anh Phiên lên khỏi hầm để đi hoạt động, Hảo mở nắp căn hầm bí mật cho anh lên, hai người chỉ kịp trao nhau một nụ cười, một ánh mắt thiết tha trìu mến. Và bao giờ cô cũng không quên một lời dặn dò lo lắng theo anh:
- Anh đi cẩn thận nhé! Anh nhìn cô mỉm cười và gật đầu.
- Chào Hảo, tôi đi đây.
Anh nói khẽ và ra đi, hút bóng trong màn đêm mịt mùng, để lại trong căn phòng nhỏ một nỗi lo lắng bao trùm, với một đêm trằn trọc mất ngủ của cô gái.
- Sao con Hảo cứ dày qua dày lại vậy, không ngủ đi mai còn ra đồng sớm - U nhắc khi thấy Hảo cứ giở mình liên tục.
- Vâng, tại trời oi bức thôi u ạ!
Nói vậy để u yên tâm chứ cô không sao chợp mắt nổi, cố gắng nằm thật im để u khỏi biết, chứ trong lòng cô như lửa đốt phừng phừng, tiếng con thạch sùng “tặc, tặc” từng chặp trên đình màn, tiếng chuông binh bong của chiếc đồng hồ quả lắc ở gian giữa đã điểm ba tiếng mà anh Phiên vẫn chưa về. Tiếng chó sủa rộ lên phía đầu làng từng chặp rồi tất cả lại chìm vào yên lặng một cách lạ thường. Sắp canh năm, tiếng gà gáy le te trong chuồng, đến lúc này Hảo không thể nằm thêm được nữa, cô dậy sửa soạn mọi thứ để ra đồng sớm. Hôm nay gặt thửa ruộng gần sông Đuống nên phải đi khá xa, dưới bếp anh Nô cũng đã dậy cơm nước sẵn sàng cho cả nhà. Anh Nô là người ở trong nhà từ hồi ông bà nội còn sống, rất chăm chỉ nên u và cả nhà ai cũng quý mến, một người hiền lành chịu thương chịu khó nhưng mồ côi từ bé và bị câm điếc bẩm sinh. Hảo dậy đi thẳng xuống bếp, rồi đi ra mở cửa sau, anh Nô có ý hỏi nhưng lại thôi. Như có linh tính, Hảo cứ xồng xộc mở cửa đi ra vườn chuối, trăng cuối tháng vẫn treo chênh chếch trên ngọn tre cuối làng, lờ mờ soi bóng những hàng cây cao quá đầu người, những tàu lá chuối như chiếc phản phất phơ ánh lên màu bàng bạc. Hảo đi thật chậm mắt mở căng kiếm tìm, những hạt sương đêm đọng trên tàu lá vướng vào người đổ dồn xuống lạnh buốt, đôi mắt đã quen dần với bóng lờ mờ ngoài vườn thì cũng là lúc cô nhìn thấy một khối đen gục bên gốc chuối. Bước chân gấp gáp tới bên, một tiếng hỏi nhỏ nhưng đanh cất lên: “Ai?”. Có tiếng rên khẽ: “Tôi”. “Anh Phiên, anh bị sao thế này?”. Cả người Phiên ướt đẫm một lớp bùn bết lại, một bên mắt cá chân bị thương lủng lẳng, khắp người gai cào tưa tướp, những mảng bùn trộn máu khô cứng từng mảng trên chiếc áo mặc trên người anh. Phiên đã cố hết sức để lết về đến vườn chuối, vừa ngồi nghỉ để lấy sức lê tiếp, anh biết trời sáng sẽ rất nguy hiểm, khi bọn bảo an vẫn đang lùng sục khắp nơi. Hảo giúp anh trở vào bếp, cô ra hiệu cho anh Nô lấy bộ quần áo khô thay cho Phiên, lau rửa những vết bùn và máu đã bết trên da thịt, rồi nhanh chóng đưa anh xuống hầm bí mật. Mọi việc trong nhà, kể cả nhà có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, anh Nô đều biết và âm thầm giúp đỡ. Sau đó cô cùng anh Nô ra vườn xoá sạch mọi dấu vết, mọi việc xong xuôi thì trời cũng vừa sáng. Cô chỉ kịp bê một bát cháo nóng xuống hầm cho anh rồi phải ra đồng ngay, trước khi đi còn hái mấy chiếc lá láng đưa anh Nô bảo hơ nóng để anh chườm vào cổ chân bị bong gân trật khớp, anh Nô đã kéo lại khớp khi đưa anh xuống hầm. Lúc cùng u và chị gái ra đến đầu ngõ gặp mấy tên bảo an vẫn đang lảng vảng dòm ngó, những đôi mắt láo liên lùng sục, chứng tỏ đêm qua anh Phiên gặp nguy hiểm suýt ảnh hưởng tới tính mạng. Anh Phiên là cán bộ nằm vùng, Hảo nghe đâu là cán bộ cấp cao hay gì đó rất quan trọng, bọn cường hào mật thám đang ráo riết lùng sục và cả dán giấy có hình ngoài đình Cả, bọn nó còn treo thưởng rất cao cho ai biết hoặc trình báo, đủ biết tầm quan trọng của người chiến sĩ cộng sản đang ẩn dưới hầm nhà cô. Trong lòng Hảo bỗng thấy lo lắng cho anh, nhưng cũng rất tự hào vì gia đình mình đã có công nuôi giấu anh bấy lâu nay, ngay trước mũi bọn chúng mà chúng không hề hay biết gì. Cái mác địa chủ của gia đình ông bà nội cô cũng làm chúng e dè, đã bao lần chúng lùng sục, đào xới cả cái làng Cả này lên, nhưng riêng nhà ông giáo Lực thì bọn chúng chưa rờ tới, vì vậy mà các cán bộ vẫn an toàn. Căn hầm bí mật nằm dưới mật thất của gia đình ông Lực, trước kia là gian hầm chứa của nả thóc gạo, cũng có thể chứa được bốn, năm người ở lại dưới đó, có lúc cũng đón vài người nhưng ở lại thường xuyên chỉ có anh Phiên. Hảo là liên lạc giữa anh và thế giới bên ngoài, sau đận bị trật khớp bong gân ấy anh Phiên phải nghỉ ngơi, dưỡng thương cả tuần không lên khỏi hầm, hằng ngày Hảo đưa cơm nước xuống hầm cho anh, đêm đến dìu anh lên vườn vệ sinh, tắm rửa có sự phụ giúp của anh Nô, tình cảm hai người càng khăng khít quý mến nhau. U lờ mờ đoán được nên gặng hỏi con gái:
- Người ta là người của cách mạng, con chớ làm điều gì mà ảnh hưởng.
- Con đâu dám… nhưng mà con thương anh ấy thật lòng u ơi.
Bà mẹ vuốt tóc con gái, đôi mắt buồn buồn dõi xa xôi nói:
- Nhưng người ta còn công việc, rồi bao hiểm nguy rình rập… lỡ một ngày…
- U đừng nói thế, nhà ta đã che giấu nuôi anh ấy trong nhà cả năm nay, như thế cũng là người “bên họ” rồi. Có hiểm nguy cũng phải cùng nhau gánh chịu mà u.
Những ngày sau đó, vết thương trên người Phiên mưng đỏ và lên mủ trắng, thì ra lúc chạy trốn anh đã phải nấp vào chuồng trâu, nên bây giờ mới bị nhiễm trùng. Bố Hảo đi dạy học nên cũng biết về thuốc thang, ông lặng lẽ lên phố tìm mua thuốc kháng sinh mang về cho anh uống, ở nhà Hảo pha nước muối loãng rửa vết thương cho anh hằng ngày. Hai người gần gũi nhau trong một không gian chật hẹp, lại va chạm da thịt nên khiến Hảo bạo dạn, cô càng cảm phục người cán bộ ngay trước mắt mình, cho dù có gian khó hiểm nguy cũng không màng đến tính mạng để đi theo một lí tưởng quang vinh. Tình cảm cứ trào dâng trong tim, nắm lấy bàn tay tơ tướp vết gai cào còn đang mưng mưng của anh, cô khẽ nói:
- Anh Phiên! Em thương anh… Liệu chúng mình có thể đến với nhau, và trở thành vợ chồng được không anh? Anh run run nắm lấy bàn tay cô.
- Anh yêu Hảo… nhưng anh lo cho Hảo và gia đình, anh không thể vì hạnh phúc của riêng mình mà làm ảnh hưởng tới công việc chung. Hảo hiểu cho anh. Bất giác Hảo choàng tay ôm lấy anh thật chặt, giọng cô nghẹn ngào nhưng rất quyết liệt.
- Em biết… Nhưng chúng mình cứ đến với nhau đi anh. Em sẽ có cách, chỉ cần anh quyết tâm, chúng ta cùng quyết tâm là được.
Cách của Hảo kể ra cũng hơi nhẫn tâm, nhưng chỉ còn cách đó. Hai người lên thưa chuyện với thầy u, anh Phiên về báo cáo với tổ chức. Còn phần Hảo bàn với thầy u làm đám cưới giả với anh Nô để che mắt bọn việt gian, bảo an luôn rình rập quanh làng. Anh Nô ngoài bốn mươi tuổi, rất hiền lành lại bị câm điếc bẩm sinh, anh đã ở với gia đình nhà Hảo từ lâu lắm rồi. Còn một chuyện khó nói mà chỉ người trong nhà Hảo mới biết, đó là ngay từ nhỏ anh bị một trận ốm quai bị biến chứng khiến anh không thể làm cha được nữa. Khi nghe ông giáo giải thích (bằng kí hiệu ra dấu tay) anh hiểu rất nhanh và gật đầu đồng ý, bởi anh cũng thương cô Hảo, thương người chiến sĩ cộng sản dưới hầm bí mật. Khi được cấp trên đồng ý, thầy u ủng hộ, đám cưới của hai người được thực hiện ngay trong gian hầm bí mật với sự chứng kiến của một người cán bộ cấp trên của anh Phiên, cùng thầy u. Với dân làng thì cô Hảo lấy anh Nô là người làm trong nhà cũng hơi bất ngờ, cô Hảo xinh xắn được nhiều đám dòm ngó, trong đó có cả con trai địa chủ Bảo Bình nức tiếng một vùng, đều bị cô Hảo lắc đầu. Khi mọi chuyện đã an bài, mọi người cũng chỉ biết chép miệng, tiếc cho mối tình của đôi đũa lệch. Nhưng thấy cuộc sống của gia đình cô êm thấm cũng chả ai còn thắc mắc gì nữa. Về phần anh Nô lại thấy mình may mắn, vì từ nay về sau dù với thân phận giả để che mắt thế gian nhưng anh cũng rất vui, vì từ lâu anh đã coi ông bà giáo đây là người đã sinh ra anh lần nữa, và anh nguyện một lòng trung thành, tận tụy với gia đình ông chủ đã không coi anh là phận tôi tớ. Việc giúp cho ý nguyện cô Hảo, cô chủ nhỏ mà anh luôn yêu quý, làm anh rất vui. Một năm sau cô Hảo sinh được một cậu con trai kháu khỉnh đáng yêu, cả nhà ai cũng cưng chiều, cậu bé trông như một thiên thần bé nhỏ. Anh Phiên thì ngày càng hoạt động khắp một vùng châu thổ rộng lớn, lúc xuống cơ sở nắm bắt tình hình, lúc về gây dựng cơ sở Đảng dưới các thôn xã lân cận trong huyện lị và các vùng xung quanh, thúc đẩy phong trào đấu tranh trong dân. Bọn Pháp đánh hơi được một phần tử vô cùng quan trọng, đã treo giải thưởng lùng sục phần tử cộng sản nằm vùng nguy hiểm này. Công việc của anh ngày càng đòi hỏi phải cẩn trọng hơn, và đầy rẫy nguy hiểm luôn rình rập mỗi ngày. Cứ mỗi đêm mở cửa hầm cho anh lên, lòng cô lại lo lắng khôn tả.
- Anh đi lần này có lâu không?
- Còn tuỳ vào tình hình, anh sẽ cố gắng để về sớm với em và con.
- Vâng, em chỉ lo lắng cho anh thôi. Chứ em biết công việc của anh, em không cản anh đâu, việc cách mạng luôn luôn là hàng đầu, thầy vẫn nói với em: “Con phải luôn động viên chồng con để nó hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao”. Thời cuộc thay đổi rồi… dân ta sắp được tự do rồi phải không anh?
Ôm vợ con thật chặt, hôn lên đôi má mũm mĩm vẫn còn thơm mùi sữa, lặng lẽ từ biệt hai mẹ con, anh lẫn vào màn đêm tĩnh mịch… mang theo hình ảnh người vợ tảo tần cùng đứa con nhỏ bé thơ ngây. Hương lúa tháng mười xôn xao của cánh đồng đang vào vụ, đây đó những thửa ruộng đã chớm đỏ đuôi cong trĩu như mảnh trăng lưỡi liềm đầu tháng, anh thấy lòng phơi phới một niềm tin vào tương lai tươi sáng. Một mùa bội thu đang đến gần, đêm nay anh đến một cơ sở cách mạng mới nằm phía bờ Bắc tả ngạn sông Đuống. Hoạt động cách mạng đang phát triển lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Được sự đùm bọc, che chở của Nhân dân trong vùng, bởi trong họ có một lòng nồng nàn yêu nước và căm thù giặc Pháp sâu sắc. Bọn mật thám tức lồng lộn, chúng càng sát sao lùng sục những chân rết đang ngày một lan rộng khắp một vùng châu thổ rộng lớn.
Tin giặc Pháp bắt được một cán bộ Việt Minh lan về làng, làm gia đình ông giáo Lực lo lắng như ngồi trên đống lửa. Mới sáng sớm giặc Pháp đã bắc loa phía đình làng gọi Nhân dân xem hành quyết cộng sản, kẻ chống lại quốc gia. Một thân người bê bết máu và bùn, khuôn mặt sưng vù biến dạng, hai tay bị trói gô treo ngược lên cành đa cổ thụ giữa đình. Nơi ngực trái, một vết đạn xuyên tim đã lấy mạng người chiến sĩ cộng sản. Người đó đã không còn sống nhưng tụi nó vẫn trói chặt và canh phòng cẩn thận, chúng bêu lên để làm gương cho những ai dám cả gan chống lại quốc gia. Chiếc áo nâu mà hôm trước anh mặc đã bị bùn dính bết, nhưng chiếc khuy nhựa màu xanh nơi cổ áo thì Hảo nhớ như in, chính cô đã dứt chiếc khuy áo từ chiếc áo của mình để đính vào chỗ cái khuy màu trắng đã bị đứt từ lúc nào của anh. Mớ tóc xoăn tự nhiên phủ xuống đôi tai rất dày của anh. Hảo như muốn khụy xuống mà nấc lên, cô cắn chặt đôi môi đến bật máu, cô phải ghìm nén nỗi đau thương vào tận sâu đáy lòng. Vì cô biết mọi tai mắt của bọn Việt gian đang theo dõi mọi cử động của dân làng Cả này, hòng tìm ra manh mối của những người cộng sản đang hoạt động bí mật, mà từ lâu chúng đã nghi ngờ và tốn công tìm kiếm ráo riết. Cái xác vẫn treo ở đầu đình và bọn bảo an trông coi cẩn mật, hai hôm dãi sương dầm nắng mà bọn chúng chưa cho hạ xuống, mọi người trong làng bàn nhau cướp xác đem đi chôn. Nhưng đến đêm thứ ba chúng lặng lẽ đưa cái xác lên xe thùng chạy tít mù trong đêm, nghe đâu bọn chúng đem thả những chiến sĩ cộng sản xuống dòng sông Đuống và trôi về phía biển. Để lại nỗi nhớ thương quặn lòng cho người vợ trẻ đang ôm đứa con còn đỏ hỏn. Còn gì đau xót hơn trong tình cảnh chia lìa âm dương cách biệt, mà trước mắt bọn ác ôn lại phải vờ như không biết. Chỉ một động thái nhỏ là có thể làm bại lộ cả một đường dây nuôi giấu cán bộ, mà bấy lâu nay anh Phiên và các đồng chí của mình đã gây dựng, sự hi sinh của anh là nền móng khơi gợi lòng yêu nước trong Nhân dân, làm vững tin vào ý chí kiên cường của các đồng đội đang một lòng đi theo ánh sáng của Đảng dẫn đường. Hảo ốm cả tháng trời sau đó, cô vẫn không thể tin được là Phiên của cô đã ra đi mãi mãi. Đêm đêm ôm đứa con nhỏ dại vào lòng, hình ảnh sợi dây dù xiết chặt đôi tay tím bầm, thi thể phơi sương lạnh, phơi nắng lửa trong vòng vây của bọn ác ôn với những họng súng đen sì xung quanh, cô xót xa và cũng rất đỗi tự hào. Phiên của cô thật anh dũng và phi thường, cái ý chí quật cường ấy thể hiện ở chỗ anh không còn sống mà bọn giặc vẫn phải khiếp sợ, anh ngã xuống để lại cho quê hương những mùa Xuân muôn sắc hoa. Sự hi sinh của anh để đổi lại hạnh phúc cho muôn nhà, cho thế hệ mai sau trong đó có Phúc, đứa con trai bé bỏng của anh và cô được sống trong độc lập, tự do.
Trong cải cách ruộng đất, Hảo vô cùng đau buồn khi ông và thầy u đều bị đem ra đấu tố, nhưng rất may mắn, một cán bộ cấp cao cũng chính là người đã chứng kiến đám cưới “dưới lòng đất” có một không hai của Hảo với Phiên về thăm. Sự có mặt của ông thật đúng lúc, vừa giải oan cho gia đình, vừa trả lại danh dự cho Phiên. Lễ truy điệu Phiên được tổ chức, và con trai Hảo được nhận họ hàng bên nội.
Sau cải cách ruộng đất, thầy u cũng lần lượt ra đi để lại một vết thương lòng khá sâu trong cuộc đời của Hảo. Còn lại với hai bàn tay trắng, cô cần cù chịu thương chịu khó nuôi dạy Phúc lớn khôn nên người. Bà nhớ rõ năm ấy, bà gồng gánh đôi quang, một bên là đứa con trai ba tuổi, một bên là mâm xôi, gà, oản, hương hoa, một mình đi bộ hết mấy chục cây số tìm về quê chồng ở bên kia sông Đuống. Khói đồng cay mắt, bước thấp bước cao, vai gánh trĩu xuống không làm bước chân bà chậm lại, bà đi như thể không nhanh thì cái niềm mong mỏi bấy lâu nay canh cánh bên lòng tan biến mất. Bà đâu biết rằng, từ nay cuộc sống của bà và đứa con sớm mồ côi cha sẽ đến một bước ngoặt lớn, không còn tối tăm mù mịt nữa, con bà sẽ được ngẩng cao đầu mà tự hào rằng. Chồng bà là một người chiến sĩ cộng sản kiên trung.
Chị Thu về làm dâu bà Hảo tính đến nay đã được hai mươi tám năm tròn, hai tám năm với một đời người không quá dài nhưng cũng không thể gọi là ngắn. Ngần ấy năm chị bên mẹ, gia đình êm ấm đoàn viên, bà cháu, mẹ con không một tiếng nặng, nhẹ. Mẹ thương chị, yêu các cháu, anh Phúc đi công tác triền miên, mẹ đã giúp chị rất nhiều, và chị học được ở mẹ chồng lòng vị tha, bao dung rộng lớn, có lẽ cuộc đời bà đã chịu quá nhiều thiệt thòi mất mát, nên bà hiểu rõ cái giá của hạnh phúc hôm nay. Mỗi năm vào dịp Rằm tháng Bảy, mẹ lại cùng con cháu kết một bè hoa, nến, mang tới bến sông năm xưa, nơi người chồng, người cha yêu qúy của họ đã ra đi về miền mây trắng, bà cứ đứng đó mắt dõi về phía xa xăm, giọt nước mắt long lanh chảy tràn trên khuôn mặt đã hằn in vết khắc của thời gian, bà khe khẽ cất lên giọng hát trong trẻo như cô Hảo của ngày xưa đang hát, lời hát bay theo sóng nước như muốn gửi gắm cả tấm lòng thương nhớ về nơi biển cả mênh mang.
Goá chồng từ năm hai mươi nhăm tuổi, bà ở vậy nuôi con, thờ chồng, chu toàn mọi việc lớn nhỏ cả hai bên nội, ngoại, nay tuổi đã cao, sức đã yếu, nhưng mẹ vẫn tự mình làm mọi việc, không muốn con cháu phải vất vả vì mình. Chị Thu cũng luôn nhắc nhở con cháu sống hiếu thảo với bà, đi đâu về cũng có đồng quà tấm bánh bà cháu ríu rít, lúc đó chị thấy mẹ cười rất vui, những nếp nhăn trên khuôn mặt mẹ như giãn ra nhường chỗ cho những nụ cười hạnh phúc. Ai đó nói về sự xa cách giữa mẹ chồng nàng dâu, về sự “khác máu tanh lòng” thì với chị thực sự không có khoảng cách đó. Mẹ như người mẹ thứ hai mà cuộc đời ưu ái đã dành cho chị. Có mẹ, gia đình chị như được che chở bởi bóng cây cổ thụ râm mát. Chị hiểu “mẹ già như chuối chín cây”, vậy nên mẹ ốm mấy ngày nay làm chị lo lắng vô cùng. Chị xin nghỉ làm để ở nhà chăm sóc mẹ, và để có người trò chuyện cho mẹ vui hơn.
Những câu chuyện ngày xưa bà kể biết bao lần, chị nghe đến thuộc làu mà vẫn muốn nghe. Thích nhất là đoạn bà bảo hát bài: “Chàng buông vạt áo em ra” cho người chiến sĩ cộng sản dưới hầm sâu ngày ấy… “Chàng buông vạt áo em ra/ Để em là em đi chợ kẻo mà chợ trưa. Chợ trưa rau héo ai mua/ Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em…”. Lúc đó trông bà thật hạnh phúc, trong ánh mắt của bà ánh lên đầy tự hào bi tráng. Vẫn biết đời người là hữu hạn và chị không thể giữ bà mãi mãi ở bên mình. Chị vẫn luôn lo sợ một mai bà vãn nẻo trần, sau khúc đời mưa gió chị còn biết gục lòng ai để khóc cho thoả. Với chị, bà là một người mẹ anh hùng. Chị yêu thương và cảm phục bà với một lòng biết ơn và tự hào vô bờ bến.