Nhịp cầu bạn đọc

Pháp luật - Bạn đọc 03/08/2020 21:30
![]() |
Biên bản công bố Quyết định kiểm tra lập ngày 3/11/2016 |
Có dấu hiệu làm trái quy trình kiểm tra thuế.
Đơn của ông Nguyễn Văn Lâm phản ánh: Ngày 24/10/2016, Đoàn kiểm tra thuế của Chi cục Thuế huyện Long Thành, có ông Đặng Thành Ngọc, Trưởng đoàn và bà Đặng Thị Thanh Huyền, thành viên, đến Văn phòng Công ty, để kiểm tra nhưng không lập “Biên bản công bố Quyết định kiểm tra” đối với Quyết định số 5457/QĐ-CCT ngày 24/10/2016 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện Long Thành về việc kiểm tra thuế tại Công ty.
Đến này 3/11/2016, Đoàn kiểm tra thuế của Chi cục Thuế huyện Long Thành, đến Công ty lập “Biên bản công bố Quyết định kiểm tra” công bố nội dung Quyết định số 5457 trên. Từ nội dung biện bàn này cho thấy có những mâu thuẫn: Tại sao, ngày 21/11/2016, Đoàn kiểm tra thuế mới mang toàn bộ biên bản đến Công ty, để ông Nguyễn Văn Lâm là người đại diện hợp pháp của Công ty kí các biên bản cùng một lượt? Ở cuối Biên bản công bố Quyết định kiểm tra, phía Công ty có ghi ý kiến “Đoàn kiểm tra thuế có đến Công ty làm việc vào ngày 24/10/2016 tại Công ty”, nhưng ông Ngọc lại ghi trong biên bản là ngày 3/11/2016, chính thức công bố Quyết định số 5457/QĐ-CCT ngày 24/10/2016 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện Long Thành ? Những mâu thuẫn này, thể hiện dấu hiệu “hợp thức hóa” về thời gian các biên bản kiểm tra.
Cũng về thời gian công bố Quyết định số 5457 trên, còn thể hiện làm trái quy định tại tiết 3.2, điểm 3 phần II Quy trình kiểm tra thuế (Ban hành kèm theo Quyết định số 746/QĐ-TCT ngày 20/4/2015 của Tổng cục Thuế) quy định: “3.2. Quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế phải được gửi ngay cho bộ phận kê khai và kế toán thuế và gửi cho người nộp thuế chậm nhất là ba ngày làm việc kể từ ngày ban hành quyết định.” Và có dấu hiệu vi phạm Quy trình kiểm tra thuế (Ban hành kèm theo Quyết định só 746/QĐ-TCT ngày 20/4/2015 của Tổng cục Thuế, ) quy định: “4. Thực hiện kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế. 4.1. Việc kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế phải được tiến hành chậm nhất là 10 ngày làm việc, kể từ ngày ban hành Quyết định kiểm tra thuế. Trưởng đoàn kiểm tra thuế có trách nhiệm công bố quyết định kiểm tra thuế và giải thích nội dung kiểm tra theo quyết định. Sau khi công bố quyết định kiểm tra, Đoàn kiểm tra thuế và người nộp thuế phải có biên bản xác định thời gian và nội dung công bố quyết định kiểm tra theo Mẫu số 05/KTTT ban hành kèm theo Thông tư số 156/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính.”
Có dấu hiệu áp dụng sai điều luật
Theo hồ sơ, ông Nguyễn Văn Lâm đã có khiếu nại, tố cáo đối với Quyết định số 5708/QĐ-CCT ngày 16/11/2016 của Chi cục Thuế huyện Long Thành về việc xử lý vi phạm về thuế qua kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế. Điều 1 quyết định này có nội dung : Xử lí về thuế theo kết quả kiểm tra đối với ông Nguyễn Văn Lâm, Tổng Giám đốc Công ty, thời kì kiểm tra từ năm 2011 đến 2015; truy thu thuế TNDN: 131.680.653 đồng. Số tiền phạt 20% và tiền chậm nộp 0,05%; 0,03%: 37.502.65l đồng; … Tổng cộng: 169.183.304 đồng.
Ông Nguyễn Văn Lâm khiếu nại việc Đoàn kiểm tra Chi cục Thuế Long Thành đã xuất toán chi phí khác số tiền 856.571.048 đồng của Công ty là không có cơ sở. Vì khoản chi phí nàv là Công ty phải bồi thường Hợp đồng Cung cấp dịch vụ bảo vệ và cũng là hợp đồng để tạo ra doanh thu cho Công ty, liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Mặt khác, căn cứ Chương II Thông tư 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn tại Điều 6. Các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, có quy định:
“1. Trừ các khoản chi không được trừ nêu tại Khoản 2 Điều này, doanh nghiệp được trừ mọi khoản chi nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau: Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; Khoản chi có đủ hóa đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của pháp luật. Khoản chi nếu có hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên (giá đã bao gồm thuế GTGT) khi thanh toán phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt. Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng. Trường hợp mua hàng hóa, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên ghi trên hóa đơn mà đến thời điểm ghi nhận chi phí, doanh nghiệp chưa thanh toán và chưa cỏ chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì doanh nghiệp được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Trường hợp khi thanh toán doanh nghiệp không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì doanh nghiệp phải kê khai, điều chỉnh giảm chi phí đối với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt (kể cả trong trường hợp cơ quan thuế và các cơ quan chức năng đã có quyết định thanh tra, kiểm tra kỳ tính có phát sinh khoản chi phí này).
2. Các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế bao gồm: 2.1. Khoản chi không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều này. Trường hợp doanh nghiệp có chi phí liên quan đến phần giá trị tổn thất do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn và trường hợp bất khả kháng khác không được bồi thường thì khoản chi này được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, cụ thể như sau: Doanh nghiệp phải tự xác định rõ tổng giá trị tổn thất do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn và trường hợp bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật. Phần giá trị tổn thất do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn và trường hợp bất khả kháng khác không được bồi thường được xác định bằng tổng giá trị tổn thất trừ phần giá trị doanh nghiệp bảo hiểm hoặc tổ chức, cá nhân khác phải bồi thường theo quy định của pháp luật.”
Căn cứ pháp lý và nội dung vụ việc nêu trên, thì Công ty đáp ứng đủ điều kiện: Có “Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”, nên Công ty có khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, Chi cục Thuế huyện Long Thành vẫn ban hành Quyết định số 5708/QĐ-CCT ngày 16/11/2016 nói trên, là thể hiện có sai phạm nghiêm trọng quy định Khoản 1 và khoản 2 Điều 6, chương II Thông tư 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính.
![]() |
Quyết định số 254661/QĐ-CCTKV ngày 21/7/2020- Trang 1 |
![]() |
Quyết định số 254661/QĐ-CCTKV ngày 21/7/2020 của Chi cục Thuế Khu vực Long Thành-Nhơn Trạch về việc cưỡng chế thi hành quyết định hành vi hành chính thuế bằng biện pháp thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng |
Ra quyết định xử lí, trước khi có biên bản vi phạm.
Đến ngày 21/11/2016, đoàn kiểm tra đến Công ty, mang theo các biên bản để Công ty kí, gồm có: Biên bản công bố quyết định kiểm tra ghi ngày 3/11/2016 lập tại DNTN Minh Tâm Hiếu; Biên bản kiểm tra chi tiết ghi ngày 7/11/2016 và Biên bản kiểm tra (tổng hợp) ghi ngày 11/11/2016). Ý kiến của Công ty không thống nhất với đoàn kiểm tra về việc xuất toán “Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Ông Nguyễn Văn Lâm cho biết: “Sau khi nghe Đoàn kiểm tra nói khoản tiền truy thu này Chi cục Thuế sẽ đưa vào diện khoanh nợ để xóa và không xử phạt, không tính tiền chậm nộp đối với Công ty, nên tôi tin tưởng ký biên bản lần 2 vào sau ngày 21/11/2016, khoảng 3 đến 5 ngày).”
Như vậy, sau ngày 21/11/2016 các biên bản trên được kí lần 2. Nhưng trước đó là ngày 16/11/2016, đã có Quyết định số 5708/QĐ-CCT của Chi cục Thuế huyện Long Thành xử lý vi phạm về thuế qua kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế. Rõ ràng ở đây có mâu thuẫn: Có quyết định xử lí, trước khi có biên bản vi phạm? Điều này chẳng khác gì có giấy “báo tử” trước khi “chết”!? Mặt khác, đến ngày 9/12/2016, Đoàn kiểm tra mới giao Quyết định số 5708 cho Công ty, thì liệu có phải là để nhằm “hợp thức hóa” dấu hiệu làm trái luật của cán bộ thuế?
Cưỡng chế thi hành quyết định đã hết hiệu lực thi hành!
Đến ngày 21/7/2020 Chi cục Thuế Khu Vực Long Thành – Nhơn Trạch ban hành Quyết định số 254661/QĐ-CCTKV về việc cưỡng chế thi hành quyết định hành vi hành chính thuế bằng biện pháp thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng và Thông báo số 254662/QĐ-CCTKV ngày 21/7/2020 của Chi cục Thuế khu vực Long Thành – Nhơn Trạch về việc hóa đơn không còn giá trị sử dụng.
Sau đó 23/6/2020, Công ty có Văn bản số 25/20/ CV/SGLH gửi Cục Thuế tỉnh Đồng Nai về việc không đồng ý với Quyết định số 254661/QĐ-CCTKV và Thông báo số 254662/QĐ-CCTKV của Chi cục Thuế Khu vực Long Thành – Nhơn Trạch, như trên. Đến ngày 8/7/2020, Phòng Kiểm tra nội bộ Cục Thuế Đồng Nai tham mưu Lãnh đạo Cục Thuế kí Văn bản số 6214/CT-KTNB trả lời Văn bản số 25/20/CV/SGLT của Công ty”, cho rằng Chi cục Thuế khu vực Long Thành - Nhơn Trạch xử lý là đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, như sau: “1. Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 1 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội. 2. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn”
Áp dụng quy định trên đối với trường hợp của Công ty, không áp dụng các biện pháp cưỡng chế (trong đó bao gồm biện pháp kê biên tài sản) theo quy định tại Nghị định số 166/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/11/2013 quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Hơn nữa, Công ty không vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 nêu trên, nên Quyết định số 5708/QĐ-CCT ngày 16/11/2016 của Chi cục Thuế huyện Long Thành xử lý vi phạm hành chính, từ tháng 11/2016 đến nay 2020 (là 4 năm) đã hết hiệu lực pháp luật (hết hiệu thi hành) theo quy định.
Từ những nội dung phản ánh trên đây, trân trọng kiến nghị Cục trưởng Cục thuế tỉnh Đồng Nai xem xét, giải quyết theo thẩm quyền; thông báo kết quả giải quyết để có cơ sở trả lời bạn đọc theo quy định của Luật Báo chí!