Mong Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao sớm xét xử Giám đốc thẩm!
Pháp luật - Bạn đọc 31/10/2022 09:24
Giữa năm 1998, ông Huang Pao Tzu mời ông Trần Tuấn Minh hợp tác làm ăn để vực dậy Cơ sở Quảng Hưng sản xuất cửa nhựa, tấm trần nhựa do ông Minh đăng kí đứng tên, tại A4/7Q, Quốc lộ 1 A, xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh (nay là quận Bình Tân), TP Hồ Chí Minh đang trên bờ vực phá sản. Cơ sở này có số vốn đầu tư ban đầu là 250 triệu đồng. Cuối năm 1998, ông Minh và ông Tzu thỏa thuận: Ông Tzu bỏ vốn (Cơ sở cũ sẵn có), ông Minh bỏ công sức, tâm huyết, trí tuệ để điều hành kinh doanh và chia lợi nhuận theo văn bản thỏa thuận bằng tiếng Hoa ngày 25/5/1999.
Cuối tháng 7/1999, ông Minh và ông Tzu thỏa thuận (bằng miệng): Giải thể Cơ sở Quảng Hưng, để thành lập Công ty TNHH mới; về lợi nhuận, ông Minh phải được chia trong Cơ sở Quảng Hưng, nhưng chưa được nhận, sẽ chuyển thành 15% tổng số vốn góp cổ đông ban đầu trong công ty mới.
Biên bản thỏa thuận về chuyển nhượng phần vốn góp |
Ngày 8/10/1999, ông Minh cùng ông Tzukí thỏa thuận với nội dung: Hai bên đồng ý chấm dứt hiệu lực của tất cả các thoả thuận đã kí trước đây, trong đó toàn bộ các tài sản và thiết bị đều đã được giải quyết ổn thoả. Điều này có nghĩa là hai bên sẽ không còn gì tranh chấp trong tương lai về nội dung của các thoả thuận nêu trên. Bản thỏa thuận trên chỉ là nói về pháp nhân Cơ sở Quảng Hưng, nên đây là thỏa thuận có tính chất giữa 2 cá nhân với nhau, vì thời điểm đó pháp nhân Công ty TNHH Quảng Hưng chưa được thành lập. Sau đó, ông Minh xin giải thể “Cơ sở Quảng Hưng” theo quy định.
Ngày 11/8/1999, ông Minh cùng 4 người thân trong gia đình (Lâm Thị Lệ, sinh năm 1954; Lâm Văn Trọng, sinh năm 1958; Diệp Thú Huệ, sinh năm 1960; Lâm Thị Dục, sinh năm 1938) thỏa thuận thông qua Điều lệ công ty và cùng kí lập bản Điều lệ đề ngày 9/9/1999, chọn tên công ty mới là “Công ty TNHH Quảng Hưng”, trụ sở giao dịch chính tại nhà số 842 Hưng Phú, phường 10, quận 8, TP Hồ Chí Minh; Giấy phép thành lập số 2409 GP/TLDN ngày 15/10/1999, do ông Nguyễn Văn Chí, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh kí; vốn điều lệ đăng kí ban đầu của Công ty là 2 tỉ đồng. Sau nhiều lần tăng vốn, đến tháng 3/2007, vốn điều lệ đăng kí của Công ty là 8,8 tỉ đồng.
Ngày 8/1/2000, ông Minh và ông Tzu kí bản hợp tác làm ăn mới (một bản tiếng Anh và một bản tiếng Việt). Theo đó, ông Tzu thể hiện là một đối tác khách hàng lớn, đại diện Công ty Yinq Jenn Đài Loan (Trung Quốc) kí thỏa thuận đối tác ưu đãi làm ăn với Công ty TNHH Quảng Hưng do ông Minh đại diện. Đây là bản thỏa thuận có đầy đủ tính pháp lí, do có pháp nhân cùng kí và đóng dấu hợp pháp giữa 2 công ty đối tác.
Năm 2001, Công ty TNHH Quảng Hưng, do ông Minh đại diện, làm thủ tục kí kết hợp đồng với Công ty Tân Tạo xin thuê mua nhà xưởng trong Khu công nghiệp Tân Tạo, đồng thời chuyển trụ sở Công ty về tại địa chỉ Lô 7 - 9, đường số 1, Khu công nghiệp Tân Tạo. Theo hợp đồng này, hai nhà xưởng lô 7 - 9 là Công ty TNHH Quảng Hưng được trả góp tiền thuê mua mỗi tháng, thời gian trả góp 10 năm.
Kết luận điều tra số 336/VKSTC-C6 ngày 14/10/2009 của Cục Điều tra, Viện KSND Tối cao |
Căn cứ thỏa thuận trong Hợp đồng thuê mua nhà xưởng, khi trả xong hết tiền thuê mua nhà xưởng thì Công ty Tân Tạo có nghĩa vụ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà xưởng gắn liền trên đất cho Công ty TNHH Quảng Hưng theo quy định của pháp luật. Công ty TNHH Quảng Hưng đã thực hiện việc trả góp tiền thuê mua nhà xưởng liên tục được hơn 6 năm, tức là hơn 60% tiền mua nhà xưởng.
Sau đó, ông Minh và ông Tzu có tranh chấp. Quá trình giải quyết phát sinh sự việc: Ngày 23/3/2007, ông Minh cùng 4 thành viên trong Hội đồng thành viên Công ty TNHH Quảng Hưng kí “Biên bản thỏa thuận về chuyển nhượng phần vốn góp”, nội dung: Tự nguyện bán lại phần vốn góp trong Công ty TNHH Quảng Hưng cho hai người: Bà Phan Lê Bảo Hương và bà Phan Lê Kim Liên; giá chuyển nhượng 8,8 tỉ đồng. Nhưng, thực tế đến nay ông Minh cùng 4 thành viên đều không quen biết bà Hương và bà Liên; và không nhận được số tiền trên (Kết luận điều tra số 336/VKSTC-C6 ngày 14/10/2009 của Cục Điều tra, Viện KSND Tối cao).
Vụ án được Tòa án thụ lí và trong quá trình Toà án đang giải quyết, ngày 27/4/2010, bà Hương gấp rút cho tiến hành giải thể Công ty Quảng Hưng.
Mong được xét xử Giám đốc thẩm!
Hồ sơ thể hiện vụ án ở giai đoạn sơ thẩm bị kéo dài gần 10 năm. TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm (Bản án phúc thẩm số 11/2021/KDTM-PT ngày 29/1/2021); bản án này có hiệu lực pháp luật và đang được Cục Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh tiến hành thi hành án theo luật định.
Văn bản số 28/CV-CQTT ngày 12/7/2022 của Cơ quan Thường trực Báo Nhân dân tại TP Hồ Chí Minh. |
Ông Trần Tuấn Minh trình bày nguyện vọng: “Đến ngày 19/1/2022, các đương sự đột nhiên nhận được Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm số 01/2022/KN-KDTM ngày 12/1/2022 của TAND Tối cao. Tuy nhiên, lí lẽ được sử dụng làm căn cứ trong nội dung của Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm thể hiện không đúng sự thật khách quan, không thuyết phục, không có căn cứ pháp lí và có dấu hiệu có ý đồ cắt xén nhằm “bóp méo” sự thật, để diễn giải vụ án trong phần “xét thấy” không phù hợp quy định pháp luật. Thậm chí, những chứng cứ đã được Cục Điều tra, Viện KSND Tối cao kết luận là chứng cứ sai phạm pháp luật, được coi là “căn cứ mấu chốt” của Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm.
Đến nay đã hơn 9 tháng, từ khi có Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm, vụ án vẫn chưa được xét xử theo quy định tại Điều 339 Bộ luật Tố tụng dân sự: “Trong thời hạn 4 tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải mở phiên tòa để xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm”. Đây là cở sở để các đương sự có đơn khiếu nại khẩn cấp,nêu nguyện vọng mong được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xét xử Giám đốc thẩm, không chấp nhận Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm số 01/2022/KN-KDTM ngày 12/1/2022 của TAND Tối cao và giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 11/2021/KDTM-PT ngày 29/1/2021 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đã có hiệu lực pháp luật.
Về vụ án trên, Tạp chí Người cao tuổi có Văn bản số 19/CV-TCNCT ngày 21/2/2022, trân trọng kiến nghị Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao xem xét, giải quyết nguyện vọng của nguyên đơn là 5 người cao tuổi.
Trong một diễn biến khác, ngày 12/7/2022, Cơ quan Thường trực Báo Nhân dân tại TP Hồ Chí Minh có Văn bản số: 28/CV-CQTT, kính chuyển đơn của các đương sự đến Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, TAND Tối cao, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Ban Dân nguyện Quốc hội xem xét.
Thực hiện quy định tại Điều 5, Luật Người cao tuổi năm 2009, Tạp chí Người cao tuổi trân trọng kính chuyển nguyện vọng của các đương sự (người cao tuổi) đến Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh xem xét, kiến nghị Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, TAND Tối cao, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Ban Dân nguyện Quốc hội giải quyết theo chức năng thẩm quyền về sự việc phản ánh trên đây; xin thông báo kết quả để Tạp chí trả lời người cao tuổi - Trần Tuấn Minh và bạn đọc theo quy định.