Già hóa dân số và sinh kế của người cao tuổi
Nghiên cứu - Trao đổi 27/08/2021 14:21
Hiện cả nước có hơn 11 triệu NCT, chiếm khoảng 11,86%. Theo dự báo, trong 10 năm nữa, NCT sẽ chiếm 17% dân số, đến năm 2038 là 20% và đến năm 2050 sẽ là 25%.
Một xu hướng khá phổ biến gần đây trên thị trường lao động, số NCT ngày càng chiếm tỉ lệ cao hơn. Theo thống kê, cứ 10 lao động lớn tuổi tại các đô thị thì có 7 lao động làm việc trong khu vực phi chính thức.
Chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên, với tuổi nghỉ hưu như hiện nay, rất nhiều NCT vẫn còn sức khỏe và khả năng để làm những công việc phù hợp giúp tinh thần vui vẻ đồng thời có thêm thu nhập cải thiện cuộc sống. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ NCT không có lương hưu, họ vẫn phải đi làm để có tiền trang trải cuộc sống...
Theo báo cáo tại Diễn đàn Sinh kế và khởi nghiệp đối với NCT tổ chức mới đây, để NCT tìm được công việc phù hợp không phải dễ dàng, trong khi các quy định về lao động lớn tuổi ở nước ta vẫn khá hạn chế và thị trường lao động dành riêng cho đối tượng này chưa được hình thành.
Hiện, người lao động trong nhóm từ 45 tuổi trở lên có rất ít lựa chọn việc làm, còn nhóm từ 60 tuổi trở lên hầu như không có việc làm cần đến họ qua các kênh tuyển dụng chính thức. Với người lao động từ 50 tuổi trở lên, công việc họ tìm được chủ yếu tập trung vào các việc, như: Bảo vệ, giúp việc gia đình, chăm sóc người già... Bên cạnh đó, nhiều NCT có khả năng, kinh nghiệm, muốn đầu tư SXKD nhưng lại thiếu vốn.
Đặc biệt, vừa qua do tác động của đại dịch Covid-19 khiến cho cuộc sống của NCT lại càng khó khăn hơn, nhiều NCT bị mất sinh kế, thu nhập giảm sút nghiêm trọng.
Chính vì vậy, việc phát huy sinh kế và khởi nghiệp cho NCT, đặc biệt là trong bối cảnh khi Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số và tác động của đại dịch Covid-19 hiện nay, được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách, vừa bảo đảm quyền làm việc, đóng góp cho xã hội của NCT, vừa tận dụng được kinh nghiệm và chất xám của lực lượng lao động đặc biệt này, góp phần bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội của đất nước.
TS Nguyễn Hải Hữu, Phó Chủ tịch Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và nghề Công tác xã hội Việt Nam, cho rằng, không phải tất cả NCT đều cần chính sách hỗ trợ về sinh kế, nhất là những NCT làm chủ doanh nghiệp, có nguồn thu nhập cao, ổn định. Nhưng đối với nhóm NCT còn khả năng tham gia hoạt động kinh tế, cần có thu nhập để bảo đảm cuộc sống và thực hiện quyền sống độc lập, như NCT thu nhập thấp, NCT thuộc diện nghèo sống độc lập, NCT cư trú ở vùng đặc biệt khó khăn…, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về sinh kế cụ thể cho họ. Cũng cần có sự ưu tiên, khác biệt giữa chính sách hỗ trợ về sinh kế đối với NCT với các lứa tuổi khác. Chính sách hỗ trợ sinh kế cho NCT ở vùng đặc biệt khó khăn không giống với chính sách hỗ trợ NCT ở vùng đồng bằng, thành thị...
Theo đó, cần có chính sách vay vốn với lãi suất ưu đãi, không phải thế chấp tài sản và có sự bảo lãnh của Hội NCT cấp xã để sản xuất kinh doanh quy mô vừa và nhỏ. Chính sách miễn giảm phí học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp với tình thực tế của địa phương nơi NCT cư trú. Chính sách miễn giảm phí tham gia các khóa học về khuyến nông- khuyến lâm - khuyến ngư để nâng cao nhận thức - kĩ năng sản xuất kinh doanh phù hợp với tình thực tế của địa phương nơi NCT cư trú. Chính sách bảo hộ SXKD trong lĩnh vực nông nghiệp trong trường hợp họ gặp rủi ro, đặc biệt là rủi ro do thiên tai, dịch bệnh thông qua chính sách trợ cấp bù đắp thiệt hại...
Có thể thấy, chính sách hỗ trợ sinh kế là tiền đề quan trọng giúp NCT tự bảo đảm thu nhập, giảm thiểu mức độ phụ thuộc vào sự giúp đỡ của con cháu, thực hiện quyền sống độc lập cũng như các quyền khác của NCT. Do vậy, Nhà nước cần có định hướng và lộ trình xây dựng và thực hiện chính sách này phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước và tình hình thực tế của NCT.