Người cao tuổi Việt Nam luôn noi gương Bác về tự học và học tập suốt đời
Nghiên cứu - Trao đổi 05/06/2025 14:18
Theo TS Hà Thị Sương hình đắp trên bình phong tiền mộ 1856 là bình đựng hương và chìa ngoáy trầu, không có liên quan gì đến kí vợ chồng của 3 ngôi mộ cổ.
Không đồng ý với ý trên, bà Nghiêm Thị Hằng viện dẫn nhiều hình ảnh ống đựng hương trên bàn thờ không bao giờ có chìa ngoáy trầu để trong ống hương. Trên thực địa bình phong tiền mộ 1856 Phan Thị có chiếc bình đắp nổi trong đựng 2 chiếc đũa bên trái và bên phải là chiếc thìa, chính bình tượng trưng cho gia đình tử tù Trần Phúc Hiển. Theo nguyên tắt nam tả nữ hữu, chiếc thìa bên tay phải tượng trưng cho người chồng, hai chiếc đũa bên tay trái tượng trưng cho 2 người vợ của ông Trần Phúc Hiển.
![]() |
| Ngã ba sông Tam Kỳ - Bàn Thạch và Trường Giang. |
Trả lời 11. Ý kiến của ông Trần Văn Dũng, Trưởng Phòng Quản lí văn hóa cho rằng, không có căn cứ Tam Kỳ là quê hương của ông Trần Phúc Hiển, vì có thể Tam Kỳ là 3 con sông ở Kinh thành Thăng Long (sông Nghĩa Trụ, Kim Ngưu và Đại Bi) hợp thành sông Nhĩ Hà.
Trái với ý kiến của ông Dũng, nhà nghiên cứu chỉ dẫn 3 con sông ông Dũng chứng minh ở Kinh thành Thăng Long không phải là sông có “Ngọn nước Tam Kỳ” trong thơ Hồ Xuân Hương và không phù hợp với Đại Nam thực lục chính sử nhà Nguyễn chép “Trần Phúc Hiển là người đằng trong”. Do đó Tam Kỳ phải là ngã ba sông Tam Kỳ ở đằng trong, đó là sông Tam Kỳ, sông Bàn Thạch và sông Trường Giang tạo nên ngã ba sông Tam Kỳ.
Trả lời 12. Ông Trần Văn Dũng đặt vấn đề tại sao mộ ở Kinh thành Thăng Long đề tên Hồ Xuân Hương, khi đưa vào Tam Kỳ lại phải thay tên đổi họ?
Bà Hằng lí giải, Hồ Xuân Hương mất năm 1822, chôn cất ở đâu không ai rõ. Cũng bởi vì nữ sĩ không có con, không có họ hàng ở Kinh thành Thăng Long, nên cũng không có ai thăm viếng ngôi mộ này, trừ gia đình Tử Minh ở làng Nghi Tàm (kết nghĩa anh em với nữ sĩ). Năm 1842, sau khi nữ sĩ qua đời 20 năm, nhà thơ Tùng Thiện Vương, con thứ 10 của Vua Minh Mạng, theo Vua anh Thiệu Trị ra Kinh thành Thăng Long tiếp sứ nhà Thanh, đã tìm hỏi đến thăm viếng mộ nữ sĩ danh tiếng được chôn ở nghĩa địa phủ Tây Hồ. Bấy giờ ở Kinh thành Thăng Long người ta mới biết đây là phần mộ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương danh tiếng.
Sau năm 1842, mộ Hồ Xuân Hương được loan tin chôn ở hồ Tây qua bài thơ “Long Biên trúc chi từ” của nhà thơ Tùng Thiện Vương. Nay nhà nghiên tìm ra dấu tích phần mộ Hồ Xuân Hương đã di chuyển về quê chồng ở Tam Kỳ. Còn việc vì sao sau khi di phần mộ vào Tam Kỳ lại phải thay tên đổi họ là mộ ông Huỳnh?
Nhà nghiên cứu đã trả lời TS Hà Thị Sương câu 7 và 8 và trong báo cáo ngày 15/5/2025, đã lí giải cả 3 ngôi mộ Giày, mộ 1856 Phan Thị và mộ 1850 ông Huỳnh đều thay tên đổi họ, đều thiếu năm sinh năm mất, thiếu quê quán và không rõ ràng về người lập bia mộ vì 3 ngôi này là mộ vợ chồng tử tù.
Trả lời 13. Ông Trần Văn Dũng đặt vấn đề vì sao mộ nữ sĩ đã chôn ở hồ Tây, mồ yên mả đẹp sao phải di chuyển về quê chồng? Nữ sĩ Hồ Xuân Hương có 2 hay 3 người chồng, biết chồng là ai mà chuyển mộ về quê chồng?
Bà Nghiêm Thị Hằng giải thích: “Các cụ xưa có câu: “Sống vì mồ vì mả” là thể hiện sự tôn kính của con cháu với mồ mả dấu tích của tổ tiên sau khi qua đời để lại. Vì thế, nếu gia đình nào đó trong hoàn cảnh nào đó, bị thất lạc phần mộ tổ tiên, là những người có hiếu và có ý thức, con cháu sẽ tổ chức đi tìm mộ của tổ tiên. Có hàng triệu phần mộ liệt sĩ hi sinh ở chiến trường, sau chiến tranh đã được Nhà nước tổ chức đi tìm, quy tập phần mộ liệt sĩ đưa vào các nghĩa trang và các gia đình tìm đưa hài cốt các anh về quê hương. Gần 30 năm, tôi tham gia giúp đỡ các gia đình đi tìm mộ liệt sĩ, tôi hiểu những khát khao, những tấm lòng thành kính của thân nhân gia đình liệt sĩ, vẫn ngày đêm mong mỏi, tìm ra dấu tích mộ phần đưa hài cốt các anh về quê. Tôi có người anh trai liệt sĩ, phần mộ anh ở nghĩa trang xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang, TP Đã Nẵng, năm 1996, tôi đã tìm được phần mộ của anh tôi và đưa hài cốt anh trở về quê mẹ sau 29 năm anh an nghỉ ở chiến trường. Trong trường hợp nữ sĩ Hồ Xuân Hương-Danh nhân Văn hóa thế giới, thì việc tìm được phần mộ của bà trên quê hương chồng bà, là vinh dự và niềm tự hào của tỉnh Quảng Nam, tại sao Quảng Nam lại bỏ qua chuyện này? Đây là trách nhiệm của tỉnh Quảng Nam phải làm, như ý kiến của ông Phạm Hồng Quảng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy đã phát biểu cảm ơn các nhà nghiên cứu”.
Ông Trần Văn Dũng hỏi: Không biết chồng nữ sĩ là ai, vì bà có tới 2 hoặc 3 chồng thì phần mộ di về đâu?
Bà Nghiêm Thị Hằng viện dẫn: Lịch sử đã ghi nhận người chồng thứ nhất là ông Nguyễn Bình Kình (còn gọi là đội Kình hay Tổng cóc). Người chồng thứ hai và là người chồng cuối cùng là quan Tham Hiệp Trần Phúc Hiển. Do đó phần mộ hài cốt của nữ sĩ nếu cải cát đưa về quê chồng, chỉ có thể đưa về quê của ông Trần Phúc Hiển ở Tam Kỳ theo câu ca dao cổ “Sống quê cha ma quê chồng”.
Trả lời 14. Ông Trần Văn Dũng cho rằng: “Không có căn cứ mộ 1850 là mộ cải táng từ miền Bắc đưa vào, là dấu tích hài cốt của Hồ Xuân Hương. Việc khai quật lại mộ 1850 khảo cổ cũng chỉ xác minh được là xương nam hay nữ, chết già hay chết trẻ, không có căn cứ hài cốt dưới mộ 1850 là của nữ sĩ Hồ Xuân Hương”.
Bà Nghiêm Thị Hằng cho rằng: “Chúng tôi có căn cứ mộ 1850 là mộ cải táng từ miền Bắc đưa vào, và đã trả lời 8 câu hỏi của TS Hà Thị Sương và trong báo cáo ngày 15/5/2025. Việc khai quật lại mộ 1850 khảo cổ cũng chỉ xác minh được là xương nam hay nữ, xương người chết già hay chết trẻ, không có căn cứ hài cốt dưới mộ 1850 là của nữ sĩ Hồ Xuân Hương”, đã trả lời rõ trong câu trả lời 2”.
Trong việc giải mã các phần mộ cổ, các nhà nghiên cứu đưa ra các cơ sở nghiên cứu khoa học trước, sau đó nếu phần mộ cổ đủ điều kiện, thì việc cấp thiết phải mời ngành khảo cổ vào cuộc khai quật ngôi mộ, để có những kết luận thực chứng đối chiếu và kết nối với các căn cứ khoa học mà các nhà nghiên cứu đưa ra. Như khi tìm mộ liệt sĩ thấy phần mộ rồi (mộ thiếu thông tin), vẫn phải khai quật kiểm tra ADN để đối chứng. Trường hợp mộ 1850 đã bị đào trộm ngày 7/3/2012 còn xương cốt chôn lại, đủ điều kiện để ngành khảo cổ vào cuộc.