Bí thư Tỉnh ủy An Giang thăm, tặng quà đối tượng chính sách nhân kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam

Chăm sóc NCT 30/04/2025 10:13
Theo cơ sở dữ liệu dân cư do Bộ Công an cung cấp năm 2023, cả nước có 16.179.824 công dân từ 60 tuổi trở lên, chiếm gần 17%, dự báo đến năm 2030, số NCT ở Việt Nam chiếm khoảng 17% và đến năm 2050 là 25% dân số. Số lượng và tỉ lệ NCT tăng mạnh, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có dân số già hóa nhanh trên thế giới.
Từ năm 1989 đến 2019, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam liên tục tăng từ 65,2 tuổi lên 73,6 tuổi (trong đó, tuổi thọ của nam giới là 71 tuổi, của nữ giới là 76,3 tuổi). Tuy tuổi thọ trung bình đã tăng cao nhưng số năm sống khỏe mạnh lại thấp hơn so với nhiều quốc gia, chỉ khỏe mạnh đến 64 tuổi, khoảng 95% NCT có bệnh, chủ yếu là bệnh mãn tính không lây truyền, trung bình một NCT Việt Nam mắc 3 bệnh, đặc biệt 67,2% trong số NCT có tình trạng sức khỏe yếu và rất yếu. NCT ở nước ta số đông là nữ, (năm 2019, trong tổng số 11.408.685 NCT thì có tới 6.631.691 cụ bà (chiếm 58%), còn lại là 4.776.994 cụ ông (chiếm 42%). Tình trạng NCT sống không có vợ, chồng chiếm tỉ lệ cao, trong đó số cụ bà cô đơn cao gấp 5,44 lần so với cụ ông.
![]() |
Người cao tuổi tập thể dục dưỡng sinh tại khu vực hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội). Ảnh minh họa: Thành Đạt/TTXVN |
NCT ở nước ta chủ yếu sống ở nông thôn, đa số không có thu nhập thường xuyên. Trong số NCT tại Việt Nam khoảng 40% NCT được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội, chính sách đối với người có công và trợ cấp xã hội; 60% còn lại sống dựa hoàn toàn vào kinh tế của mình và gia đình. Khoảng 6 triệu người không có thu nhập ổn định. Tỉ lệ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội đối với NCT có nơi còn rất hạn chế và có sự khác biệt giữa các nhóm NCT, các vùng miền. Tuổi thọ, tuổi thọ khỏe mạnh ngày càng cao, nên nhiều NCT có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc (trong số 100 NCT thì có 38 người tham gia lực lượng lao động). Theo số liệu tổng hợp có khoảng 4,5 triệu NCT tham gia lực lượng lao động, chiếm gần 8% lực lượng lao động của cả nước. Khu vực nông thôn, lực lượng lao động cao tuổi chiếm 9,2%, còn ở đô thị, tỉ lệ này là 5,2%. Năm 2020, số NCT có việc làm chiếm 8,7% tổng số lao động có việc làm của cả nước, với khoảng 4,7 triệu người.
Phần lớn NCT sống với con, nhưng tỉ lệ này đang giảm nhanh. Mối liên hệ giữa các thế hệ trong văn hóa truyền thống Việt Nam là “trẻ cậy cha, già cậy con”, gia đình thường có “tam, tứ đại đồng đường”. Tuy nhiên, quy mô gia đình Việt Nam không ngừng giảm (từ 5,22 khẩu/hộ xuống còn 3,6 khẩu/hộ). Thậm chí, một số tỉnh có tỉ lệ dân nông thôn lớn nhưng quy mô gia đình rất nhỏ (chỉ có 3,1 - 3,2 khẩu/hộ). Xu hướng này đồng nghĩa với việc NCT sống cùng con cháu giảm nhanh. Một đặc điểm là phụ nữ tham gia lực lượng lao động gần ngang bằng với nam giới (tỉ lệ nữ trong lực lượng lao động của cả nước là 47,3%). Như vậy, việc “tự cung, tự cấp chăm sóc NCT” sẽ ngày càng khó khăn do thiếu nhân lực gia đình.
Hệ thống chính sách về chăm sóc NCT được ban hành, ngân sách nhà nước và nguồn lực huy động từ xã hội cho công tác chăm sóc NCT ngày càng tăng. Theo tổng hợp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, hiện nay, các cơ quan bảo hiểm xã hội đã chi trả chế độ hưu trí hằng tháng cho gần 2,7 triệu người với số tiền hưởng gần 14.475 tỉ đồng/tháng. Cả nước có hơn 4,94 triệu NCT sau độ tuổi nghỉ hưu hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hằng tháng (trong đó 2,7 triệu người hưởng lương hưu; 640.000 người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng; hơn 1,7 triệu người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, mức hưởng lương hưu bình quân khoảng 5,4 triệu đồng/người/tháng). Luật Bảo hiểm xã hội đã quy định chính sách trợ cấp hưu trí xã hội đối với NCT từ đủ 75 tuổi trở lên, trong đó đã điều chỉnh tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội hàng tháng lên 500.000 đồng.
![]() |
Chính phủ đã phê duyệt và ban hành Chương trình chăm sóc sức khỏe NCT đến năm 2030. Hệ thống cơ sở chăm sóc sức khỏe NCT được hình thành, phát triển; đã thành lập bệnh viện lão khoa năm 2016 với quy mô 500 giường, có 50/63 bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố có khoa lão; hơn 900 khoa khám bệnh có buồng riêng NCT, trên 10.000 giường điều trị nội trú ưu tiên NCT vừa điều trị bệnh, vừa điều trị phục hồi chức năng cho NCT, với 1.791 nhân viên y tế được đào tạo về lão khoa; toàn quốc có 3 cơ sở đào tạo bộ môn lão khoa. Theo số liệu thống kê đã có 3 triệu NCT được lập hồ sơ theo dõi sức khoẻ, gần 4 triệu NCT được khám sức khoẻ định kì; 96% NCT có thẻ bảo hiểm y tế; trong số 134 trung tâm bảo trợ xã hội do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lí có 13 cơ sở dưỡng lão, đã có 32/63 tỉnh, thành phố thành lập 59 cơ sở dưỡng lão tư nhân dành cho việc chăm sóc NCT. Hằng năm, Hội NCT đã phối hợp với chính quyền tổ chức chúc thọ, mừng thọ 1,1 triệu NCT; có 3 triệu NCT được lập hồ sơ theo dõi sức khoẻ, gần 4 triệu NCT được khám sức khoẻ định kì; trên 95% NCT có thẻ bảo hiểm y tế; cả nước có trên 77 nghìn câu lạc bộ của NCT ở cơ sở với nhiều loại hình hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, thu hút trên 2,5 triệu NCT tham gia. Đặc biệt, thành lập gần 7.000 câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau, thu hút hơn 170 nghìn người tham gia. Mô hình câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau được các tổ chức, cộng đồng trong nước, ngoài nước đánh giá cao, đã đạt giải "Sáng kiến vì một châu Á già hoá khoẻ mạnh" (Giải thưởng “Sáng kiến vì một châu Á già hóa khỏe mạnh” được ra đời nhằm mục đích vinh danh các chính sách, dịch vụ, mô hình và sản phẩm sáng tạo của các quốc gia châu Á, nhằm hỗ trợ thích ứng với già hóa dân số, kéo dài cuộc sống khỏe mạnh, ý nghĩa cho NCT hoặc cải thiện các điều kiện chăm sóc NCT).
NCT phát huy vai trò trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tập trung vào các hoạt động như: NCT tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; tham gia công tác hoà giải; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương; NCT tham gia bảo vệ môi trường, xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh; NCT tích cực tham gia phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; tham gia các hoạt động khuyến học, khuyến tài, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, nhân đạo; các hoạt động phòng, chống dịch bệnh ở địa phương...Theo số liệu tổng hợp hiện nay có 705.807 NCT trực tiếp tham gia công tác Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, thanh tra Nhân dân, hòa giải cơ sở (tăng 45.000 người so với giai đoạn 2014-2018); có gần 7 triệu NCT đang trực tiếp tham gia lao động, sản xuất, trong đó có 99.905 NCT làm chủ các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp; 357.967 NCT đạt danh hiệu làm kinh tế giỏi; NCT đóng góp hơn 10,6 triệu ngày công, hơn 3.000 tỉ đồng, hiến 24,4 triệu m2 đất để xây dựng đường giao thông, kênh mương, nhà văn hoá, trường học, cơ sở y tế,... góp phần xây dựng nông thôn mới; 64% số hội viên Hội Khuyến học là NCT; 656.000 NCT tham gia công tác Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể, thanh tra Nhân dân, hoà giải cơ sở; có trên 300.000 NCT tham gia các tổ an ninh Nhân dân phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự ở cơ sở.
NCT luôn được xem là nguồn lực quan trọng của dân tộc, là một chủ thể tích cực tham gia vào sự phát triển xã hội, bảo vệ và xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Để góp phần thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cần có những giải pháp đồng bộ về hoàn thiện thể chế, xây dựng đồng bộ hệ thống chính sách, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lí về bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò NCT. Vì vậy, kiến nghị một số giải pháp, chính sách NCT thích ứng với già hóa dân số, dân số già như sau:
Thứ nhất, trong công tác tuyên truyền và giáo dục, nhất là truyền thông cần có chiến lược về xu thế già hóa nhanh của nước ta để toàn xã hội nhận thức đầy đủ về thời cơ và thách thức, thúc đẩy sự thay đổi trong thái độ, xóa bỏ định kiến không đúng, những biểu hiện phân biệt đối xử tiêu cực về NCT. Tăng cường truyền thông vận động, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể, ban, ngành, các nhà hoạch định chính sách, các chức sắc tôn giáo… về công tác chăm sóc NCT và những thách thức của quá trình “già hóa dân số” đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Giáo dục, nâng cao nhận thức của cá nhân, gia đình và toàn xã hội về trách nhiệm kính trọng, giúp đỡ, chăm sóc và phát huy vai trò NCT; thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước đối với NCT; ý thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc chủ động cho tuổi già.
Thứ hai, thực hiện nhiều giải pháp để đa dạng hóa nguồn thu nhập của NCT, đặc biệt là tăng tỉ lệ NCT có lương hưu; tăng tỉ lệ NCT có việc làm (nếu có khả năng và có nhu cầu), tăng tỉ lệ NCT được hưởng trợ cấp xã hội. Giảm độ tuổi tối thiểu được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội và phân biệt “chuẩn về tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội” căn cứ vào tuổi thọ trung bình hiện nay. Cải cách hệ thống hưu trí; đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm, đặc biệt chú trọng đến các loại hình bảo hiểm tự nguyện, phù hợp với khả năng đóng góp và chi trả của người tham gia, có khả năng liên thông với các loại hình bảo hiểm khác. Trong đó chú trọng đến nhóm người cao tuổi thuộc các gia đình nghèo và cận nghèo.
Thứ ba, đa dạng hóa các mô hình chăm sóc sức khỏe NCT tại cộng đồng, như: Lập sổ theo dõi sức khỏe NCT; khám sức khỏe định kì tại trạm y tế xã, phường. Phát triển hệ thống cơ sở chăm sóc dài hạn, cơ sở y tế khám chữa bệnh cho NCT; phát triển và đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về lão khoa, phục hồi chức năng cho nhân viên, tình nguyện viên chăm sóc sức khỏe NCT. Bên cạnh hình thức “tự cung, tự cấp chăm sóc NCT” nên hình thành và phát triển nhanh “dịch vụ chăm sóc NCT”. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ việc xây dựng, phát triển và đa dạng hóa các trung tâm nuôi dưỡng, chăm sóc NCT (có chính sách ưu đãi về đất đai, vốn vay, đào tạo nguồn nhân lực,…). Hội NCT cần lồng ghép nội dung chăm sóc sức khỏe vào hoạt động của các câu lạc bộ NCT; tổ chức các hoạt động rèn luyện nâng cao sức khoẻ và hướng dẫn các thành viên, hội viên giữ gìn, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ.
Thứ tư, Nhà nước cần đa dạng chính sách thu hút, khuyến khích, hỗ trợ NCT và doanh nghiệp sử dụng lao động cao tuổi. Gia đình và xã hội ủng hộ NCT tiếp tục làm việc phù hợp khả năng sức khỏe, chuyên môn. Chú trọng đào tạo nghề và đào tạo chuyển đổi nghề cho NCT.
Thứ năm, Luật NCT khi sửa đổi, cần bổ sung mục “Bảo vệ NCT” với những quy định cụ thể về bảo vệ thân thể, tinh thần, nhân phẩm, tài sản,… của NCT trong gia đình và ngoài xã hội ở cả 3 cấp độ phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp.