Vụ tranh chấp QSDĐ tại quận 7, TP Hồ Chí Minh: Thực tế một đàng, Tòa xử một nẻo
Pháp luật - Bạn đọc 06/02/2020 15:44
Giấy phép sử dụng đất số 253/GP-UB ngày 30/10/1985 của ông Nguyễn Văn Hồng là 400m2.
Khởi kiện nhầm... đối tượng!?
Tại Hợp đồng mua bán nhà số 4405/HĐ-MBN ngày 28/6/1999, ông Đặng Thái Mai bán một phần căn nhà số 440A/10 đường số 2, phường Tân Quy, quận 7 (GPSDĐ mang số 440/10A ấp 1, xã Tân Quy Đông, huyện Nhà Bè) cho bà Trương Vũ Uyên, loại nhà phố, cấu trúc trệt, nền đất, mái tôn, vách ván, diện tích sử dụng 12m2, diện tích khuôn viên 200m2, theo Hợp đồng mua bán nhà số 174/HĐMBN ngày 27/3/1997. Tiếp đó, ông Mai bán phần nhà đất còn lại cho ông Hoàng Thế Huy theo Hợp đồng mua bán nhà ở số 5708/HĐ-MBN phần còn lại nhà số 440A/10 đường số 2, phường Tân Quy, quận 7, nhưng Hợp đồng không ghi ngày, mà chỉ ghi tháng 8/1999, loại nhà phố, cấu trúc trệt, nền đan bê tông, cột gỗ, mái tôn, tường ván, diện tích khuôn viên 200m2, diện tích sử dụng 12m2. Sau đó, ông Hoàng Thế Huy, bà Trần Thanh Loan bán cho bà Nguyễn Thị Toàn theo Hợp đồng mua bán nhà ở số 6687/HĐMB ngày 23/8/2001. Theo đó, các công chứng viên Hoàng Xuân Hoan và Đỗ Thiện Căn, Phòng Công chứng Nhà nước số 1, đã không kiểm tra kỹ hồ sơ giấy tờ, không phát hiện ra các sai sót về số nhà, cấu trúc nhà, giấy tờ có dấu hiệu giả mạo, vì Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng nhà số 174/HĐ-MBN ngày 27/3/1997 thì nhà số 440/10A chưa được cấp Giấy chứng nhận chủ quyền nhà, mới chỉ có GPSDĐ số 253/GP-UB ngày 30/10/1985 của UBND huyện Nhà Bè cấp cho ông Nguyễn Văn Hồng...nhưng vẫn chứng thực giao dịch. Do đó, cơ quan chức năng cần thanh tra, kiểm tra làm rõ sai phạm, xử lý theo quy định của Luật Công chứng.
Hợp đồng ông Đặng Thái Mai bán một phần nhà cho bà Trương Vũ Uyên
Trong một diễn biến khác, quá trình sử dụng đất, Nhà nước đã 2 lần quy hoạch làm đường nhánh lộ số 1, cụ thể là: Lần 1 vào năm 1998, với phương châm Nhà nước và Nhân dân cùng làm (không bồi thường khi giải tỏa), lấn sâu vào 2,5m; lần 2 làm đường năm 2003 (có bồi thường khi giải tỏa). Bà Nguyễn Thị Toàn đã nhận tiền đền bù 26m2, số tiền 6.240.000 đồng tại Biên bản hiệp thương đền bù số 421/BBHT-BTGPMB ngày 31/12/2003 và bà Trương Vũ Uyên đã nhận tiền đền bù 27m2, số tiền 12.960.000 đồng tại Biên bản hiệp thương đền bù số 345/BBHT-BTGPMB ngày 4/11/2003. Như vậy, chiều dài đất của bà Uyên còn lại tương đương 15m, phù hợp với Bản đo vẽ của Sở Tài nguyên và Môi trường TP Hồ Chí Minh số 100962/ĐĐBĐ-VPTT, thì phần đất của bà Uyên đang sử dụng tại vị trí số 1, chiều dài là 15,32m và tại vị trí số 2, chiều dài 15,31m, nơi bà Uyên có cắm cột trụ xi măng làm ranh giới sử dụng đất, tiếp giáp với đất của bà Nguyễn Thị Múi. Từ đó cho thấy, bà Uyên, bà Toàn ký Hợp đồng mua bán nhà đất với ông Mai, nếu xảy ra tranh chấp, thì bà Uyên phải kiện ông Mai, bà Toàn phải kiện ông Huy mới đúng nhưng không hiểu sao, lại đi kiện ông Hồng (không có liên quan đến việc mua bán nhà, san nhượng đất, không lấn chiếm đất của bà Uyên, bà Toàn). Như vậy, là thể hiện vụ kiện nhầm đối tượng, nhưng TAND quận 7 vẫn xét xử và tuyên bà Uyên, bà Toàn thắng kiện, là rất phi lý; và đã bị TANDTC kháng nghị bằng Bản án số 230/2012/KN-DS ngày 19/6/2012.
Bà Trương Vũ Uyên đã nhận tiền đền bù 27m2, số tiền 12.960.000 đồng tại Biên bản hiệp thương đền bù số 345/BBHT-BTGPMB ngày 4/11/2003
Bà Nguyễn Thị Toàn đã nhận tiền đền bù 26m2, số tiền 6.240.000 đồng tại Biên bản hiệp thương đền bù số 421/BBHT-BTGPMB ngày 31/12/2003
Thật bất ngờ, ngày 30/8/2018, UBND quận 7 cấp Giấy phép xây dựng (GPXD) số 1162/GP-UBND cho chủ đầu tư Nguyễn Thị Toàn- Lê Thành, được phép xây dựng công trình nhà ở riêng lẻ, vị trí xây dựng thửa 706, tờ 27, phường Tân Quy, quận 7, diện tích lô đất (đã trừ lộ giới) 200m2. Như vậy, UBND quận 7 cấp GPXD cho bà Toàn, diện tích khuôn viên là 200m2, là không đúng với thực tế, vì đã nhận tiền bồi thường khi giải tỏa làm đường. Dư luận đề nghị UBND quận 7 kiểm tra lại vụ việc và thu hồi GPXD cấp không đúng quy định pháp luật. Liệu có điều gì khuất tất, không minh bạch trong vụ việc này!?
Giấy phép xây dựng số 1162/GP-UBND ngày 30/8/2018 của UBND quận 7 cấp cho chủ đầu tư Nguyễn Thị Toàn- Lê Thành
Rút đơn kháng cáo nhưng Tòa vẫn xét xử!?
Tại Bản án sơ thẩm số 277/2016/DSST ngày 7/11/2016 của TAND quận 7 tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trương Vũ Uyên,Nguyễn Thị Toàn, buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Nguyễn Thị Múi và ông Trần Văn The, bà Nguyễn Thị Lợi tự tháo dỡ vật kiến trúc nhà và giao trả cho bà Uyên phần đất 57m2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Toàn buộc những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Múi tự tháo dỡ vật kiến trúc nhà và giao trả đất cho bà Toàn 47,7m2.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Toàn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, đến ngày 12/5/2017, bà Nguyễn Thị Toàn xin rút yêu cầu kháng cáo, thế nhưng TAND TP.Hồ Chí Minh vẫn xét xử là vượt quá yêu cầu khởi kiện, trong khi Bản án sơ thẩm số 277/2016/DSST của TAND quận 7 có nhiều bất cập, số liệu mâu thuẫn, hồ sơ có dấu hiệu giả mạo, nhưng TAND TP Hồ Chí Minh không xem xét, thẩm tra làm rõ, lại ban hành Quyết định số 528/2017/QĐ-PT ngày 14/6/2017 do thẩm phán Uông Văn Tuấn ký: Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án về việc tranh chấp QSDĐ và tranh chấp hợp đồng QSDĐ giữa các đương sự. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 277/2016/DSST ngày 7/11/2016 của TAND quận 7 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định này.
Biên nhận đơn xin xem xét bản án lại theo thủ tục giám đốc thẩm của Viện KSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
Quyết định số 528/2017/QĐ-PT của TAND TP Hồ Chí Minh không được dư luận đồng tình. Ông Nguyễn Văn Hồng đã có đơn gửi TAND Cấp cao, Viện KSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xem xét bản án lại theo thủ tục giám đốc thẩm (có Giấy nhận đơn) nhưng đến nay đã hơn 2 năm vẫn chưa có hồi âm.