Cần xem xét, giải quyết khiếu nại của người cao tuổi là thương binh nặng

Pháp luật - Bạn đọc 12/03/2025 16:58
Nguyên đơn (ông Lư Sanh Dũng) yêu cầu được quyền sở hữu và thừa kế di sản thừa kế là QSDĐ, nhà ở tại địa chỉ 128 Lê Lợi nói trên (nhà và đất 128 Lê Lợi) theo Di chúc năm 1982 của cụ Lư Thạch và cụ Sang.
Về công sức tôn tạo, bảo quản di sản: Ông Dũng trực tiếp quản lí, tôn tạo di sản nên cần phải tính công sức của ông Dũng. Áp dụng Án lệ số: 05/2016/AL được Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 6/4/2016, tính công sức cho ông Dũng với mức 10% giá trị QSDĐ.
Về giao hiện vật: Từ nhỏ ông Dũng đã ở tại địa chỉ 128 Lê Lợi, là chỗ ở duy nhất và là địa điểm đăng kí kinh doanh hành nghề may mui nệm. Các người thừa kế khác của cụ Sang đều đã có chỗ ở ổn định nên cần giao nhà và đất tại 128 Lê Lợi cho ông Dũng được QSDĐ và QSHNƠ. Ông Dũng thanh toán lại cho các người thừa kế khác của cụ Sang.
Về di sản của cụ Sang: Di chúc do cụ Sang lập ngày 6/6/2005 được UBND phường 3 chứng thực theo đúng quy định, có hiệu lực; tôn trọng ý nguyện của cụ Sang giao phần giá trị di sản nhà và đất của cụ Sang lại cho các bà Vân, Ấn, Điểu và Xuân.
![]() |
Bản án số: 21/2024/DSST ngày 4/5/2024 của TAND tỉnh Phú Yên |
Chia di sản thừa kế: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và một phần yêu cầu phản tố của bị đơn; chia thừa kế nhà và đất ở 128 Lê Lợi.
Bản án số: 21/2024/DSST ngày 4/5/2024 của TAND tỉnh Phú Yên, Quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Dũng và một phần yêu cầu phản tố của cụ Sang (Bị đơn). Ông Dũng được quyền sở hữu căn nhà cấp 3 và các vật kiến trúc khác gắn liền với diện tích đất 70,8m2, loại đất ở, tại thửa đất số 11, tờ bản đồ số D4IV-AC, tọa lạc tại số 128 Lê Lợi, phường 3, TP Tuy Hòa; ông Dũng thanh toán lại cho các bà Vân, Ấn, Điểu, Xuân phần giá trị đất 3.297.510.000 đồng và phần giá trị nhà 86.800.800 đồng; tổng cộng là: 3.384.310.800 đồng, mỗi người nhận 846.077.700 đồng; bà Điểu chịu 10.000.000 đồng chi phí định giá tài sản và xem xét thẩm định tại chỗ nhà, đất tại thôn Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An.
Tuy nhiên, trong đơn của bà Lư Thị Thanh Điểu phản án như sau: Về sự tồn tại của Di chúc năm 1982. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng, cụ Sang thừa nhận là có Bản di chúc năm 1982, nên kết luận Bản di chúc năm 1982 là có thật. Và trích dẫn phần tóm tắt, nhận định của Bản án dân sự sơ thẩm số: 31/2004/DSST ngày 13/9/2004 của TAND TP Tuy Hòa; Bản án phúc thẩm số: 66/2004/DSPT ngày 24/12/2004 của TAND tỉnh Phú Yên; Quyết định giám đốc thẩm số 166/2005/DS-GĐT ngày 19/10/2005 của TAND Tối cao.
Tuy nhiên, 2 bản án sơ thẩm, phúc thẩm nêu trên đều đã bị TAND Tối cao hủy toàn bộ (Quyết định giám đốc thẩm số: 166/2005/DS-GĐT ngày 19/10/2005); cũng không có cơ sở để khẳng định rằng các Bản án trước đây đã ghi lại một cách khách quan, đúng với lời khai, ý chí của cụ Sang.
Một, năm 2004, cụ Sang chỉ khởi kiện yêu cầu ông Dũng rời khỏi nhà, không có đương sự nào có yêu cầu công nhận hoặc không công nhận di chúc hoặc yêu cầu chia thừa kế, nhưng Tòa án các cấp đã quyết định việc chia thừa kế - vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự. Nếu Tòa án xem xét đến di chúc hoặc chia di sản thì phải đưa những người thừa kế của cụ Thạch, cụ Sang vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (việc có hay không có di chúc, chia thừa kế như thế nào đều ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế khác). Trong các vụ án trước đây, mặc dù có quyết định việc chia thừa kế nhưng các cấp Tòa án không đưa những người thừa kế khác vào tham gia tố tụng là không bảo đảm quyền lợi của những người thừa kế của cụ Thạch, cụ Sang.
Hai, để xác định ý chí đích thực của cụ Sang, hay nói cách khác, để đánh giá cụ Sang có thừa nhận sự tồn tại của Di chúc năm 1982 hay không, cần phải sao lục toàn bộ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ khởi kiện của các Bản án trước đây (năm 2004). Các chứng cứ trước đây như Đơn khởi kiện, bản tự khai do cụ Sang lập, hay thậm chí là biên bản hòa giải của Tòa án (năm 2004) là những chứng cứ không thể chối cãi nhằm xác định ý chí đích thực của cụ Sang, nhưng tại sao Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập để làm rõ. Ngoài ra, cũng cần phải làm rõ trong suốt quá trình tố tụng, cụ Sang có thay đổi lời khai hay không? Lí do của việc thay đổi, từ việc thừa nhận đến không thừa nhận có sự tồn tại của bản di chúc năm 1982 (nếu có)?
Thu thập toàn bộ hồ sơ vụ án trước đây sẽ góp phần làm rõ ý chí đích thực của cụ Sang. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã không thu thập đầy đủ. Kết quả là đến nay vẫn chưa làm rõ được ý chí của cụ Sang (thừa nhận sự tồn tại của Bản di chúc năm 1982 hay không?), ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến trình làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Ba, Quyết định giám đốc thẩm số: 166/2005/DS-GĐT ngày 19/10/2005 của TAND Tối cao, nêu rõ: “Cần hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm để giao hồ sơ vụ án về TAND TP Tuy Hòa xác minh, thu thập thêm chứng cứ để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự”. Tức, Hội đồng giám đốc thẩm không giới hạn phạm vi được xem xét lại có hay không có sự tồn tại của Bản di chúc năm 1982 của Tòa án cấp sơ thẩm. Nếu thật sự có giới hạn phạm vi xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm thì Quyết định giám đốc thẩm chỉ hủy một phần, chứ không phải hủy toàn bộ như Quyết định giám đốc thẩm đã nêu.
Do đó, việc TAND tỉnh Phú Yên (cấp sơ thẩm) chỉ dựa vào phần tóm tắt, nhận định của các Bản án/Quyết định trước đây (năm 2004, năm 2005) mà không xem xét toàn diện đến các chứng cứ mới và không thu thập các chứng cứ khác để xác định ý chí đích thực của cụ Sang là có dấu hiệu bỏ sót, dẫn đến kết luận trong Bản án ghi nhận bản di chúc năm 1982 là có thật, thiếu cơ sở. Cần nói rõ thêm: Ngay cả khi cụ Sang thừa nhận là có Bản di chúc năm 1982 thì cũng không có cơ sở để cho rằng sự thừa nhận của cụ Sang là đúng sự thật khách quan. Hay nói cách khác, cho dù cụ Sang có thừa nhận sự tồn tại của Bản di chúc năm 1982 thì cũng không đồng nghĩa với việc Bản di chúc năm 1982 là có thật trên thực tế, vì:
Lời khai của đương sự (sự thừa nhận của cụ Sang) chỉ bảo đảm khách quan khi hội tụ đủ 2 yếu tố: Lời khai đó không ảnh hưởng/xâm phạm đến quyền lợi của người khác và phải phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
![]() |
Di sản thừa kế là nhà, đất 128 Lê Lợi, phường 3, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. |
Trong khi, trong vụ án này, lời khai của cụ Sang (khẳng định có sự tồn tại của bản Di chúc năm 1982 (nếu có) gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến những người thừa kế khác (vì có di chúc thì những người thừa kế khác không được hưởng thừa kế). Đặc biệt, sự tồn tại của bản Di chúc năm 1982 (nếu có) không phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác (trong hồ sơ vụ án không có Bản di chúc năm 1982, những người làm chứng, người liên quan đều khẳng định không thấy bản di chúc năm 1982 - được chứng minh cụ thể dưới đây).
Bốn, đặc biệt quan trọng, tất cả các chủ thể có liên quan và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đều khẳng định không có sự tồn tại của bản di chúc năm 1982, cụ thể:
4.1 Theo lời khai của ông Dũng: ông Kiều Văn Long là cán bộ trực tiếp đến nhà cụ Thạch, cụ Sang để lấy chữ kí và chứng thực bản Di chúc năm 1982. Tuy nhiên, tại “Giấy xác nhận” ngày 12/1/2006 (có đóng dấu xác nhận của UBND phường 3), chính ông Long xác nhận: “Vào tháng 2/1982, tôi được UBND phường 3 bố trí làm thư kí tổng hợp - thi đua UBND phường và là thư kí của Uỷ ban MTTQ Việt Nam phường 3. Trong thời gian này, đến cuối năm 1987 bản thân tôi không có chức năng làm nhiệm vụ đi xác nhận và kí di chúc cho ai... Vì vậy, tôi xin khẳng định là tôi không kí vào bản di chúc của ông Lư Thạch năm 1982, vì năm 1982, ông Lư Thạch rất khỏe mạnh và đang công tác tại phường 3, với chức vụ là Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam phường 3” (BL 407);
4.2. Tại Giấy xác nhận ngày 26/12/2005 (có đóng dấu xác nhận của UBND phường 3), ông Hồ Văn Trọng, nguyên Chủ tịch UBND phường 3 xác nhận: “Tháng 2/1982, tôi tiếp nhận chức vụ Chủ tịch UBND phường 3 nhiệm kì mới, từ thời gian đó trở về sau liên tục giữ chức vụ này, đến tháng 9/1984, giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy phường 3. Trong suốt thời gian đó tôi không hề biết, cũng không kí Bản di chúc của ông Lư Thạch, cũng không cử đồng chí Kiều Văn Long đến nhà ông Thạch để xác nhận di chúc vì không phải chức năng nhiệm vụ của đ/c Long. Đồng chí Long lúc đó là cán bộ Tổng hợp, Thư kí Uỷ ban MTTQ Việt Nam phường 3.” (BL 408).
4.3. Tại Giấy xác nhận ngày 26/12/2005 (có đóng dấu xác nhận của UBND phường 3, ông Trần Chánh, nguyên Phó Chủ tịch UBND phường 3 xác nhận: “Tháng 2/1982, tôi tiếp nhận chức vụ Phó Chủ tịch UBND phường 3 nhiệm kì mới. Trong suốt nhiệm kì này tôi không hề biết, cũng không kí Bản di chúc của ông Lư Thạch, cũng không cử đồng chí Kiều Văn Long đến nhà ông Thạch để xác nhận di chúc vì không phải chức năng nhiệm vụ của đồng chí Long. Đồng chí Long lúc đó là cán bộ Tổng hợp, Thư kí Uỷ ban MTTQ Việt Nam phường 3”. (BL 409).
4.4. Ngày 9/1/2006, UBND phường 3 cũng xác nhận: “... Tại thời điểm năm 1982, ông Trọng là Chủ tịch UBND phường 3 và ông Chánh là Phó Chủ tịch UBND phường 3, ông Long là cán bộ tổng hợp và thư kí Uỷ ban MTTQ Việt Nam phường 3”. Những người có chức năng nhiệm vụ công chứng, chứng thực và người làm chứng là ông Long đều xác nhận không kí, không đến nhà ông Thạch để lấy chữ kí hoặc chứng nhận bản di chúc năm 1982. (BL 396, 397).
4.5. Tại Công văn số: 79/UBND về việc cung cấp tài liệu kí chứng thực di chúc ngày 28/10/2019, UBND phường 3 khẳng định: “Sau khi tiến hành kiểm tra hồ sơ lưu trữ tại địa phương đối với việc kí chứng thực di chúc của ông Lư Thạch và bà Lê Thị Xuân Sang lập năm 1982 và năm 2000, UBND phường 3 không tìm thấy bản di chúc nào kí chứng thực năm 1982 và năm 2000 có nội dung trên” (BL 89).
4.5. Tại Quyết định giải quyết khiếu nại (lần 1) của TAND TP Tuy Hòa và Quyết định về việc giải quyết khiếu nại số: 33/2023/QĐ-CA ngày 28/5/2023 (BL 381), TAND tỉnh Phú Yên xác nhận: “Trong hồ sơ vụ án không có bản di chúc 1982 mà bà Điểu yêu cầu Photocopy”.
4.6. Đặc biệt, tại chứng cứ duy nhất có chữ kí của cụ Sang, do chính cụ Sang lập là “Đơn khẩn cầu”, cụ Sang khẳng định Bản di chúc năm 1982 hoàn toàn không có thật. Cụ thể, sau khi tường thuật lại sự việc (không nhắc đến sự tồn tại của Bản di chúc năm 1982), cụ Sang viết: “Với nội dung quyết định của 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm, nếu xét về căn cứ để giải quyết giao cho Dũng giá trị đất là: 130.326.500 đồng là chưa hợp lí, vì bản di chúc của chồng tôi để lại không có để chứng minh, tôi không biết gì về di chúc này, nội dung của di chúc không có cơ sở gì để khẳng định mà hội đồng xét xử chỉ dựa vào đề nghị của Dũng và lời xác nhận không rõ ràng của ông Kiều Văn Long (cán bộ phường 2, TP Tuy Hòa) để tòa kết luận “đủ cơ sở để xác định di chúc là có thật” là không thuyết phục... (BL 404).
Tất cả các nhân chứng, người có liên quan, chính cụ Sang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đều khẳng định không có sự tồn tại của bản di chúc năm 1982. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét toàn diện chứng cứ nêu trên mà kết luận Bản di chúc 1982 là có thật, liệu có khiên cưỡng và thiếu căn cứ pháp luật?
Năm, ngay cả khi có sự tồn tại của Di chúc năm 1982 thì cũng cần phải xác định nội dung, tính hiệu lực của di chúc để làm cơ sở giải quyết vụ án.
Tòa án các cấp trước đây và Tòa án cấp sở thẩm đã công nhận 1 Bản di chúc không có hình thái vật lí cụ thể. Trong khi đó, pháp luật đặt ra yêu cầu là Di chúc phải lập thành văn bản (trừ di chúc miệng nhưng phải tuân theo thủ tục chặt chẽ), pháp luật cũng buộc phải xác định nội dung di chúc để xem xét đến hiệu lực của di chúc và ý chí của người để lại di chúc. Trong vụ án này, Tòa án các cấp chưa xác định đầy đủ nội dung của Bản di chúc năm 1982 (nếu xác định di chúc là có thật), chưa xác định hiệu lực của di chúc mà vội vàng công nhận hiệu lực của di chúc là thiếu cơ sở.Hồ sơ vụ án thể hiện, ngay cả khi Bản di chúc năm 1982 là có thật thì cũng sẽ bị vô hiệu một phần hoặc toàn bộ, bởi:
5.1 Pháp luật tại thời điểm năm 1982 (thời điểm được cho là lập di chúc) và pháp luật tại thời điểm mở thừa kế (năm 1989) đều không xem đất đai là di sản thừa kế. Cụ thể:
Tại mục II.1 (Phần di sản thừa kế) Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế (có hiệu lực từ ngày 24/7/1981 đến hết ngày 5/7/1996) quy định:
“Theo Điều 19 và Điều 20 của Hiến pháp mới, đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Đất đai (kể cả đất canh tác, đất ở, đất hương hỏa...) không thuộc quyền sở hữu riêng của công dân, nên không thể là di sản thừa kế. Nếu người đang sử dụng đất chết thì việc điều chỉnh quyền sử dụng phần diện tích đó sẽ do pháp luật về đất đai quy định. Cây cối và hoa mầu thuộc quyền sở hữu của người đã chết, vẫn thuộc di sản thừa kế”.
Theo quy định trên, đất đai không phải là di sản thừa kế, chỉ có nhà ở mới là di sản thừa kế. Quy định này hoàn toàn phù hợp với lí luận chính trị xã hội (trước năm 1986), khi đó toàn bộ đất đai được Nhà nước tập trung quản lí để phục vụ cho nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đất đai và quyền sử dụng đất không phải là tài sản của công dân và không được phép đưa vào giao dịch.
Mãi đến ngày 15/4/1992, khi Hiến pháp năm 1992 có hiệu lực thi hành thì chúng ta mới hình thành khái niệm về “quyền sử dụng đất”, lúc này “quyền sử dụng đất” mới được xem là tài sản/di sản.
5.2 Bản di chúc năm 1982 (nếu có) chỉ định đoạt phần nhà (nhà tole + vách ván), hoàn toàn không định đoạt phần đất.
Tại các Bản án trước đây (năm 2004, năm 2005) đều khẳng định: Vợ chồng cụ Thạch, cụ Sang lập di chúc để lại ngôi nhà cho ông Dũng, hoàn toàn không di chúc định đoạt phần đất, cụ thể:
- Bản án sơ thẩm số 31/DS-ST ngày 10+13/9/2004 của TAND thị xã Tuy Hòa:
Tại đoạn đầu trang 4 ghi nhận: “Tại biên bản làm việc ngày 17/7/2004 cụ Sang khai: “Tôi công nhận trước khi chồng tôi mất thì chồng tôi là Lư Thạch có viết bản di chúc là cho căn nhà cho Dũng. Nhưng căn nhà này là nhà tole + vách ván đã trúng đường giải tỏa nên không còn.
Tại đoạn số 3 từ dưới lên ghi nhận: “Theo anh Dũng trình bày: Năm 1982 cụ Thạch, cụ Sang đã lập di chúc cho căn nhà tole vách ván cho ông Dũng và có xác nhận của ông Kiều Văn Long” (BL 7).
Bản án phúc thẩm số: 66/DSPT ngày 24/12/2004 của TAND tỉnh Phú Yên ghi nhận: “Cụ Sang và ông Dũng khai: Nguyên thủy ngôi nhà 128 Lê Lợi, phường 3, thị xã Tuy Hòa là 1 trại tole, vách ván. Năm 1982 vợ chồng cụ Thạch và cụ Sang lập di chúc để lại ngôi nhà 128 Lê Lợi cho ông Dũng” (BL 9).
Quyết định giám đốc thẩm số: 166/2005/DS-GĐT của TAND Tối cao ghi nhận: “Năm 1976, bà có mua một căn nhà tôn vách ván bằng khoản tiền dành dụm của bà. Vào năm 1982, ông Lư Thạch là chồng của bà có lập bản di chúc cho người con trai là Lư Sanh Dũng căn nhà này...”.
Có thể thấy, các Bản án/Quyết định trước đây đều ghi nhận/khẳng định: Vợ chồng cụ Thạch, cụ Sang chỉ di chúc cho ông Dũng phần nhà (tole, vách ván, hiện nay đã không còn), hoàn toàn không định đoạt phần đất.
Mặc dù ghi nhận như vậy, nhưng các cấp Tòa án đều phân chia phần đất của cụ Sang, cụ Thạch là chưa đúng với ý chí, nguyện vọng của các cụ, không đúng quy định của pháp luật.
Trong khi chưa xác định được nội dung, hiệu lực của Di chúc mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định phân chia theo di chúc là thể hiện dấu hiệu khiên cưỡng, thiếu cơ sở. Hơn nữa, di chúc (nếu có) mới chỉ định đoạt phần nhà, không định đoạt phần đất nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cho ông Dũng hưởng phần đất là không đúng ý chí của cụ Thạch, cụ Sang, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của những người thừa kế còn lại.
![]() |
Giấy xác nhận xây dựng nhà 128 Lê Lợi. |
Những “bất cập” trong giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm
Không chia thừa kế cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:
Mục IV.B [Quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc] Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế - Văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm mở thừa kế năm 1989, quy định:
Người lập di chúc phải dành lại một phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc (nếu có). Những người thừa kế bắt buộc gồm: Vợ góa hoặc chồng góa, con chưa thành niên hoặc tuy đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, bố mẹ già yếu và túng thiếu.
Phần di sản phải dành lại cho mỗi người thừa kế bắt buộc, ít nhất là 2/3 suất của thừa kế theo luật. Nếu di chúc truất quyền thừa kế của người thừa kế bắt buộc hoặc phần dành lại cho mỗi người thừa kế bắt buộc ít hơn 2/3 suất thì phải trích chia cho đủ 2/3.
Điều 20 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 (Văn bản pháp luật được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng) quy định:
Trong trường hợp không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, thì những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng ít nhất là hai phần ba suất đó, trừ trường hợp họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh này:
a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên không đủ khả năng lao động và túng thiếu;
b) Con chưa thành niên.
- Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: 1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Pháp luật tại thời điểm mở thừa kế (năm 1989) và pháp luật hiện hành đều quy định, vợ là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, với kỉ phần là 2/3 của một suất thừa kế chia theo pháp luật.
Nếu Di chúc năm 1982 là có thật thì cụ Sang cũng sẽ được hưởng di sản do cụ Thạch để lại, với 2/3 của kỉ phần thừa kế chia theo pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã không chia cho cụ Sang suất thừa kế của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của cụ Sang.
![]() |
Giấy xác nhận về học nghề của ông Lư Sanh Dũng. |
Về tính công sức đóng góp của ông Lư Sanh Dũng
Tòa án cấp sơ thẩm cho ông Lư Sanh Dũng hưởng công sức đóng góp, tôn tạo bằng 10% giá trị toàn bộ khu đất là thiếu cơ sở khi chưa xem xét toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bởi, những người kế thừa quyền, nghĩa vụ thừa kế của cụ Sang đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu là:
- Giấy xác nhận ngày 24/02/2006 của bà Huỳnh Thị Hòa (người bán vật liệu xây dựng) khẳng định: “Vào năm 1993, cụ Sang, chủ nhà 128 Lê Lợi, Tuy Hòa có mua vật liệu tại cửa hàng Hiệp Hòa để xây dựng ngôi nhà 128 Lê Lợi. Cụ Sang trực tiếp mua hàng của tôi, trả tiền liền, không còn nợ nần gì với cửa hàng của tôi” (BL 411).
- Giấy xác nhận ngày 24/2/2006 của ông Hồ Tánh (thợ hồ, thầu xây dựng): “Năm 1993, tôi có xây dựng mới ngôi nhà 128 Lê Lợi, phường 3, TP Tuy Hòa cho cụ Sang (là chủ nhà). Từ ngày khởi công đến khi hoàn thành, bàn giao nhà, chính cụ Sang là chủ chạy mua nguyên vật liệu và trả công xây dựng, không có nợ nần ai” (BL 412).
- Giấy xác nhận học nghề ngày 13/9/2005 của ông Nguyễn Văn Hướng: “Vào tháng 2/1992, tôi có hành nghề may yên xe honda, xe đạp tại 128 Lê Lợi, phường 3, TP Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên. Đồng thời nhận dạy nghề cho ông Dũng đến tháng 5/1992, do tìm được nơi khác ổn định hơn nên tôi chuyển đi. Lúc đó, ông Dũng bỏ học giữa chừng khi nghề nghiệp chưa ổn định, chưa có gì là cơ bản” (BL 413).
- Giấy xác nhận ngày 15/9/2005 của ông Lê Thanh Trang: “Trước đây tôi có kinh doanh ngành sửa chữa xe Cam, Hàn tiện ở địa chỉ 187 Lê Lợi, F5, TP Tuy Hòa. Tôi có dạy nghề thợ tiện, hàn cho em: Dũng là con của cụ Sang có dẫn Dũng đến học nghề theo yêu cầu của cụ. Nhưng Dũng có học nghề khoảng thời gian 7 tháng hoặc 8 tháng vào khoảng năm 1991. Còn thời gian học nghề chưa hành nghề, còn sống lệ thuộc gia đình” (BL 418).
Các tài liệu nêu trên đều khẳng định, thời điểm năm 1991-1993, ông Dũng không có nghề nghiệp ổn định, không tạo ra được thu nhập, còn sống lệ thuộc vào gia đình. Cụ Sang là người trực tiếp bỏ chi phí xây nhà. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét toàn diện các chứng cứ nêu trên, mà chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận đăng kí hộ kinh doanh (nghề may mui đệm) của ông Dũng để cho ông Dũng hưởng công sức đóng góp bằng 10% giá trị di sản là không hợp lí, không phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Tòa án cấp sơ thẩm đã giao cho ông Dũng được nhận thừa kế thửa đất và sở hữu ngôi nhà (thực tế là đã tính công sức đóng góp thì mới công nhận quyền sở hữu nhà). Trong quá trình sinh sống và hiện tại thì ông Dũng vẫn ở trên thửa đất này để làm nghề kinh doanh phát sinh lợi nhuận, được hưởng lợi từ thửa đất và ngôi nhà này, bao gồm cả hưởng lợi trên phần tài sản của cụ Sang (1/2 khu đất). Đến nay, Tòa án lại tiếp tục tính cho ông Dũng 10% công sức đóng góp trên tổng giá trị đất.
Bản án sơ thẩm cũng nêu, lúc về già cụ Sang qua ở với bà Điểu. Bà Điểu là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cụ Sang (người để lại di sản) lúc ốm đau già yếu, trực tiếp thờ cúng cụ Sang nhưng không được Tòa án cấp sơ thẩm tính công sức.
Đặc biệt, có dấu hiệu Tòa án đã thiếu xót khi tính công sức đóng góp cho ông Dũng bằng 10% trên tổng giá trị đất (10% x 7.327.800.000 đồng = 732.780.000 đồng). Bởi, trong toàn bộ khu đất, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định ông Dũng được quyền hưởng thừa kế % đất, nay lại tính công sức đóng góp trên chính phần tài sản của ông Dũng được hưởng đó.
Có dấu hiệu sai sót trong áp dụng pháp luật
Theo Trích lục khai tử số: 331/TLKT-BS ngày 13/12/2018 của UBND phường 3 thì cụ Thạch mất tháng 9/1990 (không ghi ngày mất). Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 (có hiệu lực từ ngày 10/9/1990) để làm căn cứ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, theo lời khai của tất cả các đương sự, cụ Thạch mất năm 1989.
Việc xác định chính xác thời điểm cụ Thạch chết có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi pháp luật được lựa chọn làm căn cứ giải quyết vụ án là pháp luật tại thời điểm mở thừa kế (thời điểm cụ Thạch chết).
Giả sử cụ Thạch mất năm 1989 thì việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Pháp lệnh thừa kế năm 1990 (có hiệu lực từ ngày 10/9/1990) là áp dụng không đúng pháp luật. Nếu cụ Thạch mất năm 1989 thì Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 (có hiệu lực từ ngày 24/7/1981 đến hết ngày 5/7/1996) của TAND Tối cao [hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế] được áp dụng để giải quyết tranh chấp phần di sản của cụ Thạch.
Xác định thời điểm mở thừa kế (thời điểm cụ Thạch chết) có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã không xác minh, làm rõ. Đây là những dấu hiệu sai sót có thể dẫn đến lựa chọn nguồn pháp luật giải quyết không đúng.
Nguyện vọng của người cao tuổi
Từ những căn cứ nêu trên, bà Lư Thị Thanh Điểu thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Sang, cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm - TAND Cấp cao tại TP Đà Nẵng xem xét: Hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho TAND tỉnh Phú Yên xét xử lại.
Thực hiện Điều 5 Luật Người cao tuổi năm 2009, Tạp chí Người cao tuổi đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm - TAND Cấp cao tại TP Đà Nẵng giải quyết nguyện vọng của người cao tuổi là bà Lư Thị Thanh Điểu; thông báo kết quả để Tạp chí trả lời người cao tuổi và bạn đọc theo quy định.