Người dân nguy cơ thành “con nợ” khi được cấp đất tái định cư(!?)

Pháp luật - Bạn đọc 07/03/2025 14:49
Trước đó, như Tạp chí Người cao tuổi đã thông tin, về việc ông Trần Văn Công có đơn khiếu nại, kiến nghị các cơ quan chức năng xem xét lại toàn bộ vụ án dân sự về “Tranh chấp đòi nhà đất; Hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất; Hợp đồng mượn nhà, đất; hủy GCNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất” với mong muốn vụ án được làm sáng tỏ, khách quan, toàn diện...
Vụ án dân sự trên đã được 2 cấp Toà xét xử và tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Minh Tuấn và chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Trần Văn Công, bà Phạm Minh Thuý; Huỷ Hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất số 156 Kim Hoa giữa ông Trần Văn Công, bà Phạm Minh Thuý với ông Lê Minh Tuấn có Số Công chứng số 1562.2011/HĐ- CN ngày 20/10/2011, tại Văn phòng Công chứng Lạc Việt. Huỷ “Văn bản cho mượn nhà” lập ngày 18/8/2011 giữa ông Công, bà Thuý với ông Tuấn. Huỷ GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00453, số vào sổ cấp GCN: 5879/2011/QĐ-UBND do UBND quận Đống Đa cấp cho ông Lê Minh Tuấn ngày 16/11/2011. Buộc ông Trần Văn Công, bà Phạm Minh Thuý có trách nhiệm liên đới trả cho ông Lê Minh Tuấn số tiền 15.200.000.000 đồng, trong đó phần của ông Công, bà Thuý mỗi người 7.600.000.000 đồng.
![]() |
Bản án số 525/2023/DS- PT ngày 27/10/2023 của TAND Cấp cao tại Hà Nội |
Ngày 14/10/2024, Cục THADS TP Hà Nội có Quyết định số: 51/QĐ-CTHADS. Theo đó, ông Trần Văn Công, bà Phạm Minh Thuý có trách nhiệm liên đới trả cho ông Lê Minh Tuấn số tiền 15.200.000.000 đồng, trong đó phần của ông Công, bà Thuý mỗi người 7.600.000.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án.
Ngày 21/2/2025, Cục THADS TP Hà Nội có Văn bản số: 2301/CTHADS- NV. Theo đó, Cục THADS TP Hà Nội cho rằng không có căn cứ để đề nghị TAND cấp có thẩm quyền giải thích bản án, và cho rằng nếu ông Trần Văn Công nhận thấy cần Toà án giải thích, ông Công có quyền đề nghị Toà án giải thích theo điểm d, Khoản 1, Điều 7a Luật THADS năm 2014.
Ngày 25/2/2025, Cục THADS TP Hà Nội ra Thông báo số: 1028/TB- CTHADS. Theo đó, tính đến thời điểm hiện tại, bà Thuý đã thu xếp nộp 115.600.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và thanh toán trả cho ông Lê Minh Tuấn số tiền gốc là 7.600.000.00 đồng và 207.782.027 đồng tiền lãi. Còn phần ông Công mới thanh toán được 70.000.00 đồng. Ông Công phải trả 7.530.000.000 đồng và 213.824.657 đồng. Ông Tuấn yêu cầu ông Công phải thanh toán dứt điểm một lần, toàn bộ số tiền gốc và lãi chậm thi hành án trong tháng 3/2025. Hết tháng 3/2025 mà ông Công vẫn không nộp số tiền trên, ông Tuấn yêu cầu Chấp hành viên kê biên, xử lí tải sản của ông Công tại số 156 phố Kim Hoa.
Do vậy, Chấp hành viên thông báo cho ông Công biết ý kiến của ông Tuấn và thông báo hướng giải quyết hồ sơ thi hành án tiếp theo là yêu cầu ông Công thanh toán một lần toàn bộ số tiền gốc và lãi chậm thi hành án trong tháng 3/2025.
Ngày 20/1/2025, ông Trần Văn Công có đơn gửi TAND cấp cao tại Hà Nội về “Đề nghị giải thích Bản án số: 525/2023/DS- PT ngày 27/10/2023 của TAND Cấp cao tại Hà Nội”. Ngày 27/2/2025, ông Công tiếp tục có đơn gửi TAND Cấp cao tại Hà Nội và được cán bộ Toà tiếp nhận đơn đề nghị giải thích bản án, nhưng đến nay, TAND Cấp cao tại Hà Nội vẫn chưa thông báo kết quả giải thích Bản án số: 525/2023/DS- PT.
![]() |
Phiếu nhận đơn của TAND Cấp cao tại Hà Nội. |
Theo ông Công: Bản án 525/2023/DS- PT ngày 27/10/2023 của TAND Cấp cao tại Hà Nội, buộc ông Công, bà Thúy có trách nhiệm liên đới trả cho ông Tuấn tiền gốc 8 tỉ đồng và 7,2 tỉ đồng tiền lãi (10 năm), tổng số tiền là 15,2 tỉ đồng. Tuy nhiên, thực tế ông Công, bà Thúy chỉ nhận 2 tỉ đồng tiền đặt cọc mua nhà từ ông Toàn (bạn của ông Tuấn). Có thể thấy, Bản án có nội dung chưa làm rõ căn cứ, không phù hợp với thực tế, gây thiệt hại cho ông Công, bà Thúy với số tiền 13,2 tỉ đồng (15,2 tỉ đồng - 2 tỉ đồng tiền đặt cọc = 13,2 tỉ đồng).
Căn cứ Thông báo số: 02 TANDTC ngày 2/8/2021; Căn cứ Điều 607 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là 2 năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm; Căn cứ Điều 429, BLDS năm 2015, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 3 năm; Công văn: 443/VKSTC- V9 năm 2023 của Viện KSND Tối cao: Đối với yêu cầu trả tiền nợ gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện do đây là yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu theo Điều 155 BLDS năm 2015. Đối với yêu cầu trả tiền lãi, thời hiệu khởi kiện là 3 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (Điều 429 BLDS). Tuy nhiên, tại phiên Toà sơ thẩm ngày 9/5/2022, sau 10 năm tính từ ngày 16/11/2011, ông Tuấn được cấp GCNQSDĐ nhà đất 156 Kim Hoa thì ông Tuấn mới yêu cầu đòi tiền lãi của 8 tỉ đồng là hết thời hiệu khởi kiện đòi tiền lãi, ông Công, bà Thúy không phải trả tiền lãi cho ông Tuấn. Việc Tòa án vẫn buộc ông Công, bà Thúy trả cho ông Tuấn tiền lãi của 8 tỉ đồng x 9%/năm x 10 năm = 7,2 tỉ đồng là có dấu hiệu chưa đúng quy định. Ông Công đề nghị Toà án làm rõ, giải thích căn cứ vào khoản nào? Điều nào? Bộ luật nào về thời hiệu để ông Tuấn khởi kiện ông Công, bà Thuý phải trả lãi 7,2 tỉ tiền lãi trong 10 năm?
Bản án cũng tuyên ông Công, bà Thuý có trách nhiệm liên đới với ông Toàn về 8 tỉ đồng bị cáo buộc ông Toàn vay của ông Tuấn; nay ông Toàn bỏ trốn, ông Công, bà Thúy thay ông Toàn trả nợ cho ông Tuấn tiền gốc mua nhà 8 tỉ đồng và tiền lãi 10 năm, tổng số tiền 15,2 tỉ đồng. Tuy nhiên, Bản án không làm rõ căn cứ vào đâu để cáo buộc ông Công, bà Thuý có trách nhiệm liên đới với ông Toàn trả cho ông Tuấn 8 tỉ đồng (!?) Không làm rõ căn cứ vào đâu để buộc ông Công, bà Thúy phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ 8 tỉ đồng thay ông Toàn cho ông Tuấn, khi ông Toàn bỏ trốn? Không làm rõ ngày nào đến hạn ông Toàn phải trả cho ông Tuấn 8 tỉ đồng để Toà án có căn cứ ngày nào là đến hạn buộc ông Công, bà Thuý phải thực hiện nghĩa vụ phải trả nợ thay ông Toàn cho ông Tuấn?
Từ những nhận định trên, ông Công đề nghị Cục THADS TP Hà Nội xem xét ra quyết định hoãn thi hành án trong thời hạn giải thích bản án của TAND Cấp cao tại Hà Nội theo quy định của pháp luật.