Nguồn gốc khối tài sản thừa kế
Sinh thời vợ chồng ông Vũ Xuân Mùi và bà Đặng Thị Tình có hộ khẩu thường trụ tại A6, khu B, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội), nay là số nhà 14 phố Trần Tử Bình, phường Nghĩa Tân, tạo dựng được 2 khối tài sản, 1 ở thôn 3 xã Vân Hà, huyện Phúc Thọ, diện tích 1.374m2 gồm đất ở 720m2, đất vườn 654m2; bất động sản thứ 2 là nhà A6, khu B, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, có diện tích 105m2 xây nhà kiên cố cấp 2, diện tích xây dựng trên mặt bằng 75,5m2.
Thời điểm năm 2007, hộ khẩu gia đình tại nhà A6, do ông Mùi làm chủ hộ, có các thành viên bà Đặng Thị Tình (vợ ông Mùi); Nguyễn Vũ Diệu Linh, Nguyễn Vũ Tùng Dương, Nguyễn Vũ Diệu Anh (3 người là cháu). Sau đó, anh Vũ Quốc Việt, con ông Mùi, bà Tình, từ Hà Tây (cũ) chuyển về năm 2007; anh Vũ Mạnh Hùng, con ông Mùi, bà Tình); chị Vũ Thị Hồng Yến (vợ anh Hùng); cháu Vũ Quốc Định (con anh Hùng) đều từ Liên bang Nga chuyển về năm 2008.
Ngày 24/1/2011, bà Tình ốm chết. 31 ngày sau, ngày 25/2/2011, ông Mùi cũng bị ốm chết. Hai ông bà không để lại di chúc, dẫn đến tranh chấp tài sản tại địa chỉ số nhà A6.
![](/media/uploaded/images/P%20Manh/Pluat/sdfr31.jpg)
Nhà 14 Trần Tử Bình phường Nghĩa Tân, tài sản thừa kế đang tranh chấp
Của cải là “mối họa”...Ông Mùi và bà Tình có 4 người con, gồm Vũ Mạnh Hùng, sinh năm 1969; Vũ Thị Thanh, sinh năm 1973; Vũ Thị Nam, sinh năm 1975 và Vũ Quốc Việt, sinh năm 1984.
Các con của ông bà đều được học hành và làm ăn ở nước ngoài. Anh Hùng lấy vợ và sinh con ở Liên bang Nga, năm 2008 mới về nước nhập hộ khẩu vào hộ ông Mùi; chị Thanh sinh sống làm ăn tại Liên bang Nga; chị Nam sinh sống làm ăn tại Cộng hòa Séc; anh Việt học ở Liên bang Nga trước năm 2011.
Với 2 khối tài sản ở xã Vân Hà và ở nhà A6, khu B, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và 4 người con đã trưởng thành được học hành, làm việc và sinh sống ở nước ngoài, đó là niềm tự hào của vợ chồng ông Mùi với làng xóm, quê hương. Sau khi về nước chịu tang bố mẹ, 4 người con của ông Mùi lại ra nước ngoài làm ăn sinh sống. Một thời gian sau, anh Việt trở về nước, trong khi anh Hùng, chị Thanh và chị Nam vẫn làm ăn sinh sống ở nước ngoài.
Anh Việt về tự sửa nhà ở A6 (tức nhà 14 Trần Tử Bình), trong khi sửa nhà không báo cáo với chính quyền phường nên bị xử lí cắt điện nước. Anh Việt gọi điện sang cho 3 anh chị xin được ủy quyền làm chủ hộ nhà A6, để làm thủ tục xin cấp lại điện nước cho gia đình. Nhận được ủy quyền này, năm 2013, anh Việt đứng tên chủ hộ nhà A6, trong số hộ khẩu vẫn có tên anh Hùng và vợ con anh Hùng.
Sau cái chết bất ngờ của bố mẹ, anh Hùng và vợ con về nước sinh sống, nhưng ngôi nhà A6 của bố mẹ để lại, anh Việt đã tự ý cho thuê, nên vợ chồng con cái anh Hùng phải thuê nhà nơi khác để ở. Chị Thanh và chị Nam khi về nước cũng không được về ở nhà A6, vì anh Việt đã cho thuê. Ngày giỗ bố mẹ, ngày lễ, tết, anh Hùng, chị Thanh và chị Nam không được vào nhà A6 thắp hương thờ cúng tổ tiên và bố mẹ. Dẫn đến 2 chị Thanh và Nam ủy quyền cho anh Hùng đứng đơn khởi kiện anh Việt, đề nghị TAND TP Hà Nội chia tài sản thừa kế tại nhà A6, khu B, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Hết tình vì tranh chấp tài sản thừa kếTrong đơn khởi kiện, các đồng nguyên đơn gồm anh Hùng, chị Thanh và chị Nam nêu rõ: “Sau khi bố mẹ chúng tôi chết, em của chúng tôi là Vũ Quốc Việt từ Liên bang Nga về nước, đã tự ý sửa nhà và cho bà Hà thuê đất và nhà ở tại địa chỉ nhà A6, khu B, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm nơi kinh doanh mĩ phẩm hiệu Eva, không thông qua ý kiến của chúng tôi. Với tư cách là đồng thừa kế (của ông Mùi và bà Tình), chúng tôi yêu cầu em Việt, phân chia tài sản này cho 4 người đồng thừa kế, nhưng em Việt không chịu, còn có thái độ ngang ngược không cho 3 anh chị vào thắp hương cho tổ tiên và cha mẹ trong ngày giỗ, tết, đuổi mọi người không được vào nhà, có dấu hiệu muốn thôn tính hết bất động sản thừa kế này”.
Có dấu hiệu vi phạm tố tụng?Tháng 8/2017, anh Hùng có đơn khởi kiện gửi TAND TP Hà Nội, 4 tháng sau TAND TP Hà Nội có Thông báo số 601/TB-TLVA ngày 7/12/2017 thụ lí vụ án dân sự sơ thẩm số 135/2017/TLST-DS ngày 5/12/2017 về yêu cầu chia thừa kế. Trước đó, ngày 6/11/2017, TAND TP Hà Nội có Văn bản số 91/TB-TA thông báo cho anh Hùng (nguyên đơn) đóng 59 triệu đồng tiền án phí sơ thẩm. Án phí đã nộp, trong thời gian chuẩn bị đưa ra xét xử, theo quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Hòa giải trong tố tụng dân sự và khoản 7, Điều 48: Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán “tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định của Bộ luật này”, nhưng TAND TP Hà Nội vẫn chưa mời anh Việt đến tòa hòa giải. Thời gian chuẩn bị xét xử vụ án này theo quy định tại Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự là 4 tháng, kể từ ngày thụ lí vụ án, nay đã kéo dài hơn 6 tháng, nhưng TAND TP Hà Nội vẫn chưa đưa vụ án ra xét xử, trong khi anh Hùng không được tòa cho biết lí do vụ án bị kéo dài?
Đề nghị TAND TP Hà Nội thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng dân sự nhanh chóng đưa vụ án ra xét xử.
Nghiêm Thị Hằng