Tranh chấp lô đất 39C Phùng Hưng, phường Phước Long, TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa: Bản án của 2 cấp Tòa nhiều biểu hiện trái luật
Pháp luật - Bạn đọc 12/06/2019 08:04
Bài đăng trong số ra ngày 29/5/2019, chúng tôi đã phân tích, chứng minh và khẳng định: Quyết định cấp đất của Trường Sĩ quan Chỉ huy Kĩ thuật Hải quân cho bà Lương Thị Nhân, được TAND TP Nha Trang “xin” Học viện Hải quân sao y trên bản sao y cho ông Trần Quang Quynh, chẳng những không có giá trị pháp lí, mà còn phát sinh pháp nhân mới, gây tranh chấp. Tờ khai thuế năm 2005 mang tên Trần Quang Quynh là giả mạo. Học viện Hải quân và Chi cục Thuế TP Nha Trang phải chịu trách nhiệm về 2 tài liệu trái luật này.
Ngoài ra, Tòa còn sử dụng một số tài liệu không có giá trị pháp lí, hoặc giá trị pháp lí thấp, do ông Quynh cung cấp như: Bức thư của ông Trần Quang Cư, bố của ông Quynh và ông Khuynh ở Hưng Yên, xác nhận lô đất đó là của ông Quynh; Hợp đồng mắc điện, mắc nước, thuê đất ông Quynh xin xác nhận có nhà ở, thì phường lại xác nhận tình trạng sử dụng đất; có dấu hiệu giả mạo chữ kí và chữ viết Quynh trong các hợp đồng; thời gian kí hợp đồng sau thời gian thực hiện… Cam kết trái pháp luật của ông Hùng, bà Nhân về việc chuyển nhượng lô đất cho ông Quynh, bà Tuấn, sau 15 năm (1991) ông, bà này đã chuyển nhượng cho ông Trần Quang Thuấn.
Trong khi đó, hồ sơ của ông Khuynh đều là bản gốc. Đó là: Bản sao y quyết định cấp đất của Trường sĩ quan Chỉ huy kĩ thuật Hải quân cho bà Lương Thị Nhân; Giấy biên nhận chuyển nhượng một phần lô đất 39C đường 12 (Phùng Hưng), giữa vợ chồng bà Lương Thị Nhân và ông Lê Anh Hùng, với ông Trần Quang Thuấn; Giấy biên nhận chuyển nhượng lô đất giữa ông Thuấn với ông Khuynh; Tờ khai thuế ngày 20/3/2004, mang tên Khuynh, được Chi cục Thuế TP Nha Trang vào sổ bộ, có số thứ tự 148, mã số 60969, biên lai thuế đầu tiên ngày 5/4/2004, ghi số thuế phải nộp 810.800 đồng, cùng toàn bộ biên lai thuế từ năm 2004 đến 2014...
Phiên tòa sơ thẩm ngày 18/9/2015, bị đơn Trần Quang Khuynh không dự với lí do: Ngày 17/8/2015, ông có đơn nói rõ: “Tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vì yêu cầu đó không có căn cứ. Với tư cách bị đơn, tôi không có nghĩa vụ phải chứng minh ý kiến phản đối của mình”. Ngày 15/9/2015, trước sức ép của gia đình, ông Khuynh lại có đơn nói thêm: “Tôi (Khuynh) tuyên bố chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với lô đất. Do đó tôi chấm dứt việc đóng thuế. Tôi đề nghị UBND phường Phước Long làm thủ tục lô đất cho ông Quynh. Giấy tờ đất hiện tôi đang giữ. Nếu ông Quynh cần thì tôi sẽ cho”.
HĐXX đã tuyên: Công nhận toàn bộ diện tích lô đất tại 39C Phùng Hưng, phường Phước Long, TP Nha Trang thuộc quyền sử dụng của ông Trần Quang Quynh và bà Lê Thị Thanh Tuấn. Buộc ông Trần Quang Khuynh phải nộp 16.087.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Sự thật chỉ có một và chân lí bao giờ cũng nằm ở sự thật. Trong vụ tranh chấp này, chúng tôi không phân tích thêm, độc giả cũng đã thừa biết: Các loại giấy tờ lô đất mà ông Quynh cung cấp cho Tòa, hoặc Tòa thu thập được, đều có dấu hiệu giả hoặc không có giá trị pháp lí. Thế mà, thẩm phán TAND TP Nha Trang vẫn sử dụng để xét xử, tuyên một bản án như trên, thì quả là điều khó hiểu và không thể chấp nhận được. Ông Khuynh cho rằng: Bản án của Tòa là một sự khủng khiếp đối với ông. Bởi vậy, mặc dù đã từ bỏ chủ quyền lô đất, nhưng vì sự khủng khiếp đó, buộc ông phải kháng cáo. Ông hi vọng ở cán cân công lí, ở đường lối xét xử của Tòa án: “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”. Ai dè, Tòa phúc thẩm cũng đi đúng vết xe đổ của Tòa sơ thẩm. Phiên phúc thẩm, diễn ra vào ngày 6/4/2016, do thẩm phán Bùi Thị Nghĩa làm chủ tọa, đã tước hoàn toàn quyền của ông Khuynh, yêu cầu được giám định tính pháp lí các tài liệu mà ông Quynh trình Tòa, hoặc Tòa thu thập được, gồm: Bản sao y trên bản sao y Quyết định cấp đất; Tờ khai thuế; Chữ kí của ông Quynh tại các hợp đồng mắc nước, mắc điện…
Quá trình xét xử, ngoài việc thừa nhận những phân tích, đánh giá, kết luận của Tòa sơ thẩm là đúng đắn, hợp lí, có căn cứ, Tòa phúc thẩm còn đưa ra nhiều nhận xét hết sức “mới lạ”, ví dụ: Chữ kí và chữ viết Trần Quang Quynh trong các hợp đồng mắc điện, mắc nước,… là kí thay (!?). Chữ kí Quynh, dưới chữ kí đó là chữ viết Trần Quang Quynh, mà thẩm phán Nghĩa vẫn nói là chữ kí thay? Chẳng lẽ bà Nghĩa không hiểu như thế nào là kí thay và chữ kí thật? Thẩm phán Nghĩa còn “xét thấy”: Ông Khuynh không xuất trình được giấy chuyển nhượng lô đất của ông Hùng, bà Nhân chuyển nhượng cho ông Khuynh, nên không có cơ sở chứng minh việc ông Quynh, bà Tuấn đã giao lại giấy tờ đất cho ông Khuynh, như ông đã trình bày. Kính thưa: Ông Hùng, bà Nhân có chuyển nhượng cho ông Khuynh đâu mà thẩm phán yêu cầu xuất trình? Xin nói lại để thẩm phán rõ: Ngày 1/3/1991, ông Hùng, bà Nhân kí giấy chuyển nhượng cho ông Thuấn. Ngày 1/10/1995, ông Thuấn kí giấy chuyển nhượng lô đất cho ông Khuynh. Sau khi kí giấy, ông Thuấn giao luôn cả giấy cũ cho ông Khuynh. Do ông Khuynh sơ suất làm mất giấy cũ, ông đã trình báo và Công an phường Phước Long đã xác nhận cho ông. Mặt khác, tuy mất giấy gốc, nhưng ông vẫn còn giữ được bản phô tô. Như vậy là đầy đủ quá rồi, sao thẩm phán lại còn đòi hỏi cái mà ông Khuynh không có?
Thẩm phán Nghĩa còn lập luận: “Thời gian sau năm 2001, ông Quynh, bà Tuấn vẫn là người kí hợp đồng cho vợ chồng ông Yên, bà Châm thuê đất, nên việc ông Khuynh khai ông Quynh, bà Tuấn đã giao quyền quản lí lô đất cho ông từ năm 2001 là không có cơ sơ (!?). Xin hỏi thẩm phán Nghĩa: Trong phần “nhận thấy” của bản án, bà Châm khai năm 2008 đến năm 2013 vợ chồng ông, bà (Châm, Yên) mới thuê lô đất”. Vậy sao trong phần “xét thấy” thẩm phán lại nói: “Ông Quynh, bà Tuấn cho ông Yên, bà Châm thuê đất từ năm 2001”? Bằng cách nào mà bà kéo thời gian lùi lại được tới... 8 năm?!
Tại Bản án phúc thẩm, bà Nghĩa còn “ưu ái” cho bà Tuấn, rằng: Do giấy tờ thất lạc, nên ông (Quynh), bà (Tuấn) hiện không có giấy tờ gốc. Vậy theo thẩm phán Nghĩa, giấy tờ gốc lô đất thời điểm đó nằm ở đâu? Vì sao ông Khuynh lại có đầy đủ? Hay ông Khuynh trộm cắp của ông Quynh, bà Tuấn? Bà Nghĩa còn “xét thấy”: Ông Khuynh không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh việc nhận chuyển nhượng lô đất nói trên bằng tiền của ông (Khuynh). Vậy bằng cách nào để ông Khuynh có toàn bộ giấy tờ gốc của thửa đất trong tay, mà trước đó nó nằm gọn trong tay ông Quynh? Thẩm phán “xét thấy” có điều gì lạ và nghi vấn về hiện tượng này không? Thẩm phán Nghĩa cho rằng: Việc đăng kí kê khai thuế của ông Khuynh không đủ cơ sở xác định quyền sử dụng hợp pháp lô đất (!?). Vậy thưa bà, loại giấy tờ nào mới đủ cơ sở chứng minh quyền sử dụng hợp pháp lô đất? Phải là tờ khai thuế giả mạo 100% như ông Quynh có? Phải là quyết định cấp đất bằng bản sao y trên bản sao y, như Tòa dùng mối quan hệ để xin Học viện Hải quân cho ông Quynh? Phải là các giấy tờ chuyển nhượng không hề có tên Trần Quang Quynh, Lê Thị Thanh Tuấn, như ông Quynh, bà Tuấn đã cung cấp cho Tòa… mới đủ căn cứ pháp lí? Phải là các hợp đồng thuê đất, bắc điện, bắc nước có chữ kí giả của ông Quynh… mới có cơ sở?
Sau khi đăng bài trên, ông Quynh và bà Tuấn đã gửi đơn khiếu nại, yêu cầu tòa soạn gỡ bỏ bài đăng trên báo điện tử; đính chính, xin lỗi. Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi đã có văn bản báo cáo các cơ quan chức năng, khẳng định nội dung báo nêu là đúng pháp luật. Đồng thời Báo có văn bản gửi TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao xem xét lại vụ án. Được biết, Viện KSND Tối cao đã chỉ đạo Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị 2 bản án theo quy định của pháp luật. Chúng tôi hi vọng: Sự thật và chân lí sẽ được khẳng định và bảo vệ.