TP Vĩnh Long: 11 năm tố cáo thi hành án gây hậu quả nghiêm trọng không được giải quyết
Pháp luật - Bạn đọc 21/05/2020 08:20
Quyền sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Hữu Lợi
Bà Trần Thị Duệ và chồng là Nguyễn Hữu Lợi kết hôn năm 1983, có hai con chung là Nguyễn Trung Quân (SN 1988), Nguyễn Ngọc Lan Anh (SN 1995) bị tàn tật.
Cha mẹ ông Lợi là cụ bà Nguyễn Thị Khâu (chết 1987) và cụ ông Nguyễn Hữu Thời (chết 2001), có 5 người con. Sinh thời, vợ chồng cụ Khâu tạo lập được hơn 3.262 m2 đất thửa 85 và 88, tờ bản đồ số 6, ấp Tân Thạnh, xã Tân Hội.
Sau khi cụ Khâu mất không để lại di chúc, cụ Thời thay mặt vợ và các con quản lý, sử dụng đất trên. Ngày 22/9/1999, cụ Thời lập chúc thư chia tài sản quyền sử dụng đất (QSDĐ) vườn trên cho các con (hàng thừa kế thứ nhất). Chúc thư được các cán bộ UBND xã Tân Hội chứng nhận.
Do cụ Khâu chết không để lại di chúc, nên 3.262 m2 đất được chia đôi cho cụ Khâu và cụ Thời. Phần đất cụ Khâu được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất là 5 người gồm chồng (cụ Thời) và 4 người con (trong đó có ông Lợi), mỗi người được hưởng 326m2.
Như vậy, tổng diện tích đất cụ Thời được hưởng là 1.957m2, sau đó cụ Thời cho ông Lợi phần đất này và trên phần đất này đã có căn nhà do vợ chồng ông Lợi, bà Duệ tự xây dựng vào năm 1990. Như vậy, tổng diện tích đất ông Lợi được hưởng thừa kế từ mẹ và cha cho là 2.283 m2. Việc chia thừa kế này được Viện KSND TP. Vĩnh Long công nhận tại Quyết định số 01/QĐ-DS số 01/QĐ-DS ngày 9/9/2002 có nội dung: “Ông Nguyễn Hữu Thời là người đứng ra phân chia di sản thừa kế phù hợp với Khoản 1 và 2, Điều 685, Bộ luật Dân sự năm 1995”.
Ngày 5/11/1999, ông Lợi lập tờ khai nguồn gốc sử dụng đất có tên vợ là Trần Thị Duệ với nội dung: “Chúng tôi cùng sử dụng” thửa đất thửa 85: 2557,1 m2, thửa 88: 905,8m2, nguồn gốc thừa kế của mẹ. Ngày 19/9/2000, UBND TP Vĩnh Long cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ) số 00660.QSDĐ/304.QĐ. UBTX. Phần chứng nhận ghi: “Hộ Nguyễn Hữu Lợi”.
Ông Lợi xin đăng kí cấp sổ đỏ hộ gia đình, không phải cá nhân ông Lợi.
Sơ đồ minh họa việc chia QSDĐ (di sản của cụ Khâu và cụ Thời)
Thi hành trái luật gây thiệt hại quyền lợi của bà Duệ
Sau đó, ông Nguyễn Văn Chánh, 1 trong 4 người con khởi kiện yêu cầu Tòa chia lại tài sản thừa kế, vì cho rằng chia không đồng đều. Ngày 9/6/2003, TAND tỉnh Vĩnh Long ra Bản án số 189/DSPT. Diện tích đất thừa kế được phân chia lại, ông Lợi được hưởng 386,19 m2. Các diện tích đất còn lại chia cho các anh, chị em của ông Lợi.
Tuy nhiên, Căn cứ Điều 118 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy đinh về “tài sản chung của hộ gia đình”, và cũng căn cứ Khoản 1, Điều 27, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Như vậy, từ hồ sơ xin cấp sổ đỏ đến việc UBND TP. Vĩnh Long cấp sổ đỏ cho hộ ông Lợi đã xác lập đây là tài sản thuộc hộ gia đình, theo đúng quy định của pháp luật về tài sản chung. Theo đó, ông Lợi chỉ là người đại diện gia đình đứng tên trên sổ đỏ mà thôi. Mặc nhiên, bà Duệ và 2 người con vẫn có quyền sở hữu, sử dụng đối với nhà và diện tích đất trên. Thực tế này thể hiện rõ ràng việc TAND tỉnh Vĩnh Long ra Bản án số 189 chia di sản trên là không có cơ sở; gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng bà Duệ.
Nói rõ thêm về liên quan đến di sản trên
Do mâu thuẫn, ông Lợi và bà Duệ ly hôn. Ngày 26/12/2006, TAND TX. Vĩnh Long ra Quyết định số 107/2006/QĐST-HNGĐ công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Duệ và ông Lợi. Phần tài sản chung được công nhận: “Vợ chồng tự thỏa thuận”. Ngày 19/3/2008, TAND TX. Vĩnh Long ra quyết định sự thỏa thuận của các đương sự số 19/2008/QĐST-DS, nguyên đơn là bà Duệ, bị đơn ông Lợi. Nội dung, ông Lợi, bà Duệ đồng ý cho 2 con ruột được hưởng tài sản là căn nhà, đất diện tích 386,19 m2 trên.
Ở một diễn biến khác, năm 2007, ông Lê Thành Bi (SN 1954) khởi kiện các đồng thừa kế của ông Thời, do trước đó ông Thời đã lập hợp đồng mua bán đất. Theo hồ sơ, ngày 9/8/1999, ông Bi có hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ với ông Thời diện tích 1.300m2 (nằm trong diện tích đất ông Lợi đã đăng ký QSDĐ), với giá 13,5 lượng vàng 24k.
Ông Bi đưa trước cho ông Thời 18.000.000 đồng, nhưng nội dung ghi hợp đồng là cho ông Lợi mượn số tiền trên. Khi đang thực hiện hợp đồng, ngày 15/10/2001, ông Thời chết. Sau đó ông Bi đưa thêm cho ông Lợi tổng số tiền 92.184.000đ cùng thỏa thuận, ông Lợi phải lo thủ tục chuyển nhượng. Sau này, hợp đồng không được thực hiện vì đất trên đã chia đều cho các con của ông Thời, ông Bi khởi kiện vụ việc ra Tòa để giải quyết.
Ngày 11/01/2008, với Bản án số 12/2008/DSPT, TAND TP Vĩnh Long tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Bi, ông Lợi, ông Thời. Buộc ông Lợi phải trả tiền lại cho ông Bi số tiền gốc và tiền bồi thường do phát sinh giá trị đất tổng 761.092.000 đồng. Ông Lợi sau đó bỏ đi khỏi nơi cư trú, không xác định được tung tích.
Để thực hiện Bản án số 12/2008/DSPT, năm 2009, Chi cục THADS TP Vĩnh Long ủy quyền cho Trung tâm Dịch vụ Bán đấu giá tài sản tỉnh Vĩnh Long bán toàn bộ diện tích nhà và đất do mẹ con bà Duệ đang quản lý, sử dụng là 400,2m2. Buộc mẹ con bà Duệ phải di dời khỏi căn nhà, đất nêu trên.
Từ đó bà Duệ tiếp tục làm đơn khởi kiện gửi đi các cấp Tòa, nhưng không được giải quyết mà bị đình chỉ vì nhiều lý do khác nhau.
Ngày 19/8/2013 TAND Tối cao ra Quyết định Giám đốc thẩm số: 333/2013/DS-GĐT chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện KSND Tối cao. Hủy các quyết định đình chỉ vụ án của các cấp đồng thời chuyển hồ sơ vụ án về cho TAND TP Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Điều đáng chú ý là TAND Tối cao đã chỉ ra rất nhiều lỗi của Chi cục THADS TP Vĩnh Long và các cấp Tòa. Hiện nay, vụ án của bà Duệ lại tiếp tục bị đình chỉ, vì ông Lợi là bị đơn đã đi khỏi nơi cư trú. Trong khi, căn cứ theo Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Điều 217 Bô luật Tố tụng dân sự năm 2015, bị đơn vắng mặt không nằm trong quy định đình chỉ giải quyết vụ án.
Chúng tôi sẽ tiếp tục phản ánh vụ việc.