Nguồn gốc đất
Trong đơn gửi tới Báo Người cao tuổi, Báo điện tử Ngày mới, bà Lê Kim Lan, Việt kiều Mỹ, đang tạm trú tại số 53 Lê Lợi, thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên cho biết, bà mang trong mình bệnh tật, nhưng bị cấm xuất cảnh nhiều năm, do liên quan tới vụ án “Tranh chấp hơp đồng vay tài sản; tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất”, bởi nhiều điểm vô cùng mờ ám, bất thường.
Bà Lan trao đổi với phóng viên Báo Người cao tuổi
Năm 2001, bà Lan cùng chồng là ông Trần Văn Hạnh, từ Mỹ về Việt Nam mua nhà và đất để định cư, làm ăn sinh sống. Vợ chồng bà Lan đã mua một số bất động sản tại thị trấn Củng Sơn: Ngôi nhà tại địa chỉ số 55 đường Lê Lợi, thị trấn Củng Sơn, loại nhà cấp 4, xây trên diện tích 100m2 đất và 1.312m2 đất nông nghiệp; Lô đất diện tích 100m2 tại địa chỉ số 53 đường Lê Lợi, khu phố Trung Hòa, thị trấn Củng Sơn của ông Ba Khì; Lô đất vườn diện tích 444,4m2 tại khu phố Đông Hòa, thị trấn Củng Sơn của bà Lê Thị Miếu. Sau đó, vợ chồng bà Lan đầu tư xây dựng ngôi nhà tại địa chỉ số 53 và 55 đường Lê Lợi… và nhờ chị dâu là bà Bùi Thị Nhiều đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), cùng tài sản trên đất từ số nhà 39 đến số nhà 55 Lê Lợi; nhờ cháu Đặng Thị Đông Kiều đứng tên nhà và đất tại 53 - 55 Lê Lợi và đất vườn 444,4m2 thị trấn Củng Sơn (thời điểm đó pháp luật chưa cho phép Việt kiều đứng tên sổ đỏ). Bà Lan còn gửi cho bà Nhiều 33.700 USD để đầu tư, mua một số bất động sản (2002 -2003).
Sau đó, năm 2007 - 2008, gia đình bà Lan trở về thị trấn Củng Sơn sinh sống, yêu cầu bà Nhiều và cháu Kiều trả nhà, đất cho gia đình bà. Tuy nhiên, bà Nhiều chỉ thừa nhận nhà số 53 Lê Lợi và lô đất vườn 444,4m2 thị trấn Củng Sơn là tài sản của bà Lan, còn lại bà Nhiều không đồng ý trả lại vợ chồng bà Lan (hiện bà Nhiều đã bán căn nhà và đất tại điạ chỉ 55 Lê Lợi cho vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Mai, bà Nguyễn Thị Bốn).
Trước sự vô lí đó, năm 2008, bà Lan có đơn khởi kiện bà Bùi Thị Nhiều gửi đến TAND tỉnh Phú Yên. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Lan nghĩ rằng mình đã cho con trai là anh Trương Quốc Đạt ngôi nhà số 55 Lê Lợi, nên để anh Đạt đứng đơn, còn bà Lan rút đơn khởi kiện. Nhân đó, bà Bùi Thị Nhiều có đơn phản tố, thay đổi tư cách tham gia tố tụng, bà Lan trở thành bị đơn, còn bà Nhiều là nguyên đơn.
5 phiên tòa xét xử chưa xongNgôi nhà nơi tranh chấp giữa bà Lan và bà Nhiều
Đến nay, vụ án đã trải qua 5 lần xét xử, mới đây nhất, ngày 26/10/2016, TAND Cấp cao tại Đà Nẵng đã xét xử phúc thẩm lần 2 đối với vụ án, tuyên Bản án phúc thẩm số 79/2016/DS-PT, tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bà Bùi Thị Nhiều, bà Lê Kim Lan; anh Trương Quốc Đạt, ông Nguyễn Ngọc Mai, bà Nguyễn Thị Bốn; cũng như kháng nghị của Viện trưởng Viện KSND tỉnh Phú Yên; giữ nguyên bản án sơ thẩm; Không chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Thị Nhiều đòi công nhận quyền sở hữu đối với nhà 55 Lê Lợi và thửa đất số 16, tờ bản đồ số 27 theo sổ đỏ số W794313... Công nhận nhà 55 Lê Lợi theo sổ đỏ số T232985… là tài sản của vợ chồng bà Lê Kim Lan, ông Trần Văn Hạnh. Công nhận diện tích 892m2 đất màu còn lại (sau khi trừ đi 420m2 bà Nhiều đã bán cho ông Văn, ông Vũ, ông Sinh) thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 27, theo sổ đỏ số W794313… là tài sản của vợ chồng bà Lê Kim Lan, ông Trần Văn Hạnh. Buộc bà Nhiều phải trả lại cho bà Lan, anh Đạt 453,725m2 đất màu còn lại phía sau nhà 45, 47, 49, 51 Lê Lợi, thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 27, theo sổ đỏ số W794313 ngày 16/5/2003. Bà Bùi Thị Nhiều và vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Mai, bà Nguyễn Thị Bốn; vợ chồng anh Nguyễn Ngọc Thành, chị Lê Thị Ngọc Điểm phải trả lại cho bà Lê Kim Lan, anh Trương Quốc Đạt phần đất ruộng có diện tích 146,955m2, tiếp giáp phía sau nhà 55 Lê Lợi thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 27, theo sổ đỏ số W794313. Bà Bùi Thị Nhiều phải trả lại giá trị chuyển nhượng 420m2 đất màu cho bà Lê Kim Lan 4.500.000 đồng và giá trị quyền sử dụng đất diện tích 140m2 đất ruộng bà Nhiều đã xây lò bánh mì trị giá 146.160.000 đồng. Tổng cộng bà Nhiều phải trả bà Lan 150.660.000 đồng.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất giữa chị Đặng Thị Đông Kiều và vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Mai, bà Nguyễn Thị Bốn lập ngày 19/5/2008 bị vô hiệu do lừa dối. Ông Mai, bà Bốn, anh Thành, chị Điểm phải giao trả lại cho bà Lan, ông Hạnh, anh Đạt nhà số 55 Lê Lợi… Cũng theo Bản án, bà Lê Kim Lan phải trả cho bà Minh, ông Đức 10 lượng vàng 24k 9999 và 351.500.000 đồng (trong đó gốc 200 triệu đồng; lãi 151.500.000 đồng)… Sau khi bản án có hiệu lực, bà Lan có đơn yêu cầu Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên tiến hành thi hành án. Bà Lan cũng có đơn gửi tới Viện KSND Tối cao, yêu cầu xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với phần bản án tuyên về 10 lượng vàng và 351.500.00 đồng (tính cả lãi), vì 10 lượng vàng 200 triệu đồng do bà Nhiều vay của bà Minh, ông Đức, còn bà Lan chỉ trả lãi giúp.
Vụ án có dấu hiệu không khách quanTheo bà Lan, vụ việc đến nay đã kéo dài hơn 10 năm, bản thân bà và gia đình ròng rã làm đơn, đến các cơ quan chức năng. Đã trải qua 5 phiên tòa xét xử, nhưng vẫn chưa thể thi hành án, bởi Viện KSND Tối cao, Viện KSND
tỉnh Phú Yên ban hành hàng loạt quyết định kháng nghị, đình chỉ, yêu cầu hoãn thi hành án… với mục đích hoãn, không thi hành án. “Đây là lần thứ hai, ông Viện trưởng Viện KSND Tối cao ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với vụ án của tôi. Trước đó, ông Viện trưởng Viện KSND Tối cao đã ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm với nội dung giống lần kháng nghị thứ hai này, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao đã chấp nhận một phần kháng nghị, giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm. Khi Tòa án các cấp đã khắc phục được sai sót từ các lần xét xử trước, tuyên Bản án phúc thẩm số 79/2016/DS-PT ngày 26/10/2016. Không hiểu vì lí do gì, ông Viện trưởng Viện KSND Tối cao lại tiếp tục ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với vụ án của gia đình tôi? Việc này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình tôi. Nhiều lần tôi làm đơn yêu cầu Viện KSND Tối cao xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, nhưng đều bị bác đơn. Trong khi đơn của bà Bùi Thị Nhiều đều được chấp nhận. Đặc biệt, bà Nhiều đang định cư ở Mỹ, nhưng đơn xin hoãn phiên tòa, đơn yêu cầu giám đốc thẩm đều được gửi đến đúng thời điểm và được chấp nhận. Còn bản thân tôi bị cấm xuất nhập cảnh để chấp hành đầy đủ các giấy triệu tập của Tòa án. Và điều bất thường nhất, khi Viện KSND tỉnh Phú Yên, Viện KSND Tối cao luôn có văn bản kháng nghị có nội dung giống với đơn đề nghị của nguyên đơn, cả 2 vụ án khi Tòa tuyên tưởng như đã kết thúc, đều có quyết định kháng nghị của Viện KSND Tối cao. Liệu rằng có sự “mờ ám”, không khách quan trong việc giải quyết vụ án của các cơ quan tố tụng trong vụ việc của gia đình tôi?”, bà Lan nói. (Còn nữa)
Hoàng Nam