Thấy gì từ văn bản của Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang?
Pháp luật - Bạn đọc 17/07/2024 10:27
Nội dung văn bản của Sở TN&MT
Ngày 5/6/2024, Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang có Văn bản số: 2548/STNMT-VPĐKĐĐ (Văn bản số: 2548), gửi TAND tỉnh Tiền Giang, có nội dung:
Hộ ông Lê Văn Ba được UBND huyện Gò Công Đông cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số: 00726 ngày 23/3/2001 trên cơ sở hệ thống bản đồ địa chính tỉ lệ 1:5000, trong đó có thửa đất số 196, tờ bản đồ số 2, diện tích 2.220m2. Đất tọa lạc tại ấp Đôi Ma 2, xã Vàm Láng (nay là khu phố 1, thị trấn Vàm Láng), huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
Năm 2012, hộ ông Ba thực hiện cấp đổi GCNQSDĐ trên, thành GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Giấy chứng nhận), số vào sổ: CH00012, do UBND huyện Gò Công Đông cấp ngày 19/9/2013, thửa đất số 126, tờ bản đồ số 35, diện tích 2.305,2m2, với lí do cấp đổi theo số liệu đo đạc bản đồ địa chính chính quy. Sơ đồ thửa đất số 126 tại trang 3 của Giấy chứng nhận số vào sổ CH00012 không thể hiện các đối tượng giáp ranh, nhưng diện tích và hình thể thửa đất số 126 không thay đổi so với bản đồ địa chính chính quy được thành lập. Theo bản đồ địa chính chính quy được thành lập thì thửa đất số 126 có hướng Đông và hướng Nam giáp ĐGT (đất giao thông).
Trích lục hồ sơ địa chính” số 747 ngày 8/12/2010 của Trung tâm Công nghệ thông tin (Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang), xác định tứ cận thửa 196 (số 126): Đông giáp thửa số 1328 và giáp thửa số 195, người sử dụng: Lí Văn Trèo; Nam giáp thửa số 181, người sử dụng: Nguyễn Thị Cư; và giáp thửa số 186, người sử dụng: Nguyễn Văn Dành”. |
Năm 2022, các thành viên trong hộ ông Ba lập Hợp đồng tặng cho QSDĐ thửa đất số 126 sang cho ông Ba.
Đối với việc cung cấp hồ sơ địa chính tại Trích lục hồ sơ địa chính số: 747/TTCN ngày 8/12/2010 của Trung tâm Công nghệ Thông tin thuộc Sở TN&MT và Công văn số: 759/TL-VPĐK ngày 8/8/2016 của Văn phòng Đăng kí đất đai về việc cung cấp dữ liệu đất đai, thì đây là hồ sơ địa chính được lập trên cơ sở hệ thống bản đồ địa chính tỉ lệ 1:5000, là bản đồ có tỉ lệ nhỏ, không thể hiện được hết các đối tượng dạng hình tuyến như sông ngòi, đường sá... có độ rộng nhỏ, hẹp; do đó, phần hẻm giáp với thửa đất số 196 (nay là thửa đất số 551 và 552) không thể hiện trên bản đồ địa chính tỉ lệ 1:5000.
Ngày 26/8/2022, Sở TN&MT cấp Giấy chứng nhận số vào sổ CS03222 cho bà Xuân với thửa đất số 551, cấp Giấy chứng nhận số vào sổ CS03223 cho ông Ba, với thửa đất số 552: trên cơ sở giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận, đồng ý lập thành văn bản là Hợp đồng tặng cho QSDĐ, Giấy ủy quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và đã được Văn phòng Công chứng Phú Mỹ công chứng, chứng thực theo quy định của Luật Công chứng năm 2014, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ; sơ đồ thửa đất số 551 có hướng Nam giáp hẻm, sơ đồ thửa đất số 552 có hướng Đông và hướng Nam giáp hẻm là đúng theo bản đồ địa chính chính quy; Giấy chứng nhận đã cấp đúng theo Điều 79 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, đúng theo điểm k, Khoản 2, Điều 17 Thông tư số: 23/2014/TT-BTNMT của Bộ TN&MT và không có hành vi nào làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của gia đình ông Lê Văn Ba. Vì vậy, đề nghị TAND tỉnh Tiền Giang xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Ba.
Mâu thuẫn từ Văn bản của Sở TN&MT
Trao đổi với phóng viên Tạp chí Người cao tuổi, ông Lê Văn Ba cho biết:
“Thứ nhất: Theo Văn bản số: 2548, thể hiện Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang biết: GCNQSDĐ số 00726 ngày 23/3/2001 do UBND huyện Gò Công Đông cấp hộ ông Lê Văn Ba; và biết pháp luật có quy định thay đổi (thu hồi, hủy bỏ hoặc điều chỉnh) đối với nội dung trong GCNQSDĐ của hộ ông Lê Văn Ba thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND huyện Gò Công Đông.
Văn bản số: 2548/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 5/6/2024 của Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang |
Đồng thời, Chủ tịch UBND huyện Gò Công Đông không có văn bản nào về thay đổi nội dung trong GCNQSDĐ của hộ ông Lê Văn Ba, vì sao Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang tự ý thay đổi nội dung Sơ đồ thửa đất số 126 tại trang 3 của Giấy chứng nhận của hộ ông Lê Văn Ba (từ đất giáp ranh với 3 hộ dân (ông Trèo, bà Cư và ông Dành) ở hướng Đông và hướng Nam? Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang giải thích thế nào với Tòa án và nhiều người cao tuổi ở địa phương (trong đó có gia đình tôi) về việc làm trái thẩm quyền này?
Thứ hai, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang cho biết: “Trích lục hồ sơ địa chính” số 747 ngày 8/12/2010 của Trung tâm Công nghệ thông tin (Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang) Trung tâm Công nghệ thông tin, Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang gửi ông Lê Văn Ba, xác định tứ cận thửa 196 (số 126 nói trên), tờ bản đồ số 2 không có giáp ranh với đường đi công cộng: Hướng Đông giáp thửa số 1328 và giáp thửa số 195, tên người sử dụng: Lí Văn Trèo; hướng Nam giáp thửa số 181, tên người sử dụng: Nguyễn Thị Cư; và giáp thửa số 186, tên người sử dụng: Nguyễn Văn Dành”.
“Sổ hộ khẩu gia đình” Lê Văn Ba |
Tại Văn bản số: 2548, có nội dung: Sơ đồ thửa đất số 126 tại trang 3 của Giấy chứng nhận số vào sổ CH00012 không thể hiện các đối tượng giáp ranh. Nhưng không có nội dung nào giải thích tại sao mất giáp ranh với 3 hộ gia đình có tên nói trên, để hình thành ra hẻm (đất giao thông)? Đâu là động cơ, mục đích trong việc đo vẽ lại sơ đồ đất của hộ gia đình chúng tôi?
Thứ ba, Văn bản số: 2548, không nói thời điểm hộ ông Lê Văn Ba được cấp GCNQSDĐ số 00726 ngày 23/3/2001, trong “Sổ hộ khẩu gia đình” Lê Văn Ba gồm có những ai? Chỉ nói trên cơ sở giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận, đồng ý lập thành văn bản là Hợp đồng tặng cho QSDĐ. Nhưng lại không nói rõ các bên là gồm những ai; và có biến động nhân khẩu trong “Sổ hộ khẩu gia đình” Lê Văn Ba hay không?
Trong khi đó, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang biết:
1. Trong “Sổ hộ khẩu gia đình” Lê Văn Ba, có các thành viên cùng đăng kí ngày 21/4/2000, có 13 người: Chủ hộ là cụ Lê Thị Lẹ (chết ngày 9/9/2000); Lê Văn Ba, Lê Thị Sáu, Lê Thị Bảy (chuyển đi ngày 11/1/2010, lấy chồng ở ấp Giá Trên, xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông), Lê Thị Hiệp (vợ ông Ba), Lê Phước Tùng (cháu), Lê Thị Xuân (cháu, chuyển đi ngày 5/11/2004 đến 359, khu phố 2, thị trấn Vàm Láng), Lê Văn Thanh (cháu), Lê Thanh Thoảng (cháu), Lê Trung Quốc (cháu, chuyển đến Chúng cư Hòa Bình, phường 14, quận 10, TP Hồ Chí Minh ngày 11/12/2010), Nguyễn Thị Mỹ Duyên (vợ Tùng), Lê Phước Phục (chuyển đến ngày 8/4/2005) và Lê Phước Thành (chuyển đến ngày 7/1/2011).
Giấy ủy quyền ngày 3/8/2022 |
2. Thời điểm ngày 12/3/2022, chỉ có 7 người trong tổng số 13 người (có tên trong “Sổ hộ khẩu gia đình” Lê Văn Ba), tham gia lập Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (QSDĐ) không có tài sản gắn liền với đất; có nội dung: Bên tặng cho (bên A), hộ ông Lê Văn Ba gồm: Lê Phước Tùng, Lê Văn Thanh, Lê Thanh Thoảng, Nguyễn Thị Mỹ Duyên, Lê Phước Phục, Lê Thị Hiệp, Lê Trung Quốc”. Và biết, có 6 người còn lại không được tham gia lập Hợp đồng này là: Cụ Lẹ (chết ngày 9/9/2000), Lê Thị Bảy (chuyển đi ngày 11/1/2010), Lê Thị Xuân (chuyển đi ngày 5/11/2004), Lê Trung Quốc (chuyển đi ngày 11/12/2010), Lê Phước Phục (chuyển đến ngày 8/4/2005) và Lê Phước Thành (chuyển đến ngày 7/1/2011).
Tình tiết cần lưu ý là 3 người: Lê Thị Bảy, Lê Thị Xuân, Lê Trung Quốc (có quan hệ hôn nhân, huyết thống theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình; đang sống chung và có QSDĐ chung tại thời điểm được Nhà nước công nhận QSDĐ), nhưng không được tham gia lập Hợp đồng tặng cho QSDĐ ngày 12/3/2022, nên không thể có sự đồng ý bằng văn bản (có công chứng hoặc chứng thực theo quy định) của 3 người này. Đây là dấu hiệu không phù hợp với quy định tại Khoản 5, Điều 14 Thông tư số: 02/2015/TT-BTNMT ngày 27/1/2015: “Người có tên trên Giấy chứng nhận QSDĐ của hộ gia đình hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự chỉ được thực hiện việc kí hợp đồng, văn bản giao dịch về QSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật”.
Hợp đồng tặng cho QSDĐ ngày 12/3/2022 |
Ông Ba cho biết thêm: “Về cách xác định thành viên hộ gia đình có QSDĐ, căn cứ Khoản 29, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có QSDĐ chung tại thời điểm được Nhà nước công nhận QSDĐ.
Kết hợp hai quy định nêu trên, khi chuyển dịch QSDĐ của hộ gia đình, bắt buộc phải có văn bản đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình. Và thành viên của hộ gia đình được xác định tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất chứ không phải tại thời điểm chuyển dịch quyền sử dụng đất.
Do đó, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang không thể không biết thời điểm chuyển dịch QSDĐ của hộ gia đình Lê Văn Ba, có 3 thành viên (Lê Thị Bảy, Lê Thị Xuân, Lê Trung Quốc) mặc dù đã tách ra khỏi sổ hộ khẩu, tuy nhiên vẫn được xác định là thành viên có QSDĐ chung với hộ gia đình, nên khi chuyển dịch QSDĐ vẫn bắt buộc các thành viên này phải đồng ý bằng văn bản.
Biết những điều trên đây, sao trong Văn bản số: 2548, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang “vội vàng” đề nghị TAND tỉnh Tiền Giang xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của tôi?”
Thứ tư, tại Văn bản số: 2548, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang, cho biết: “Ngày 26/8/2022, Sở TN&MT cấp Giấy chứng nhận số vào sổ CS03222 cho bà Xuân với thửa đất số 551, trên cơ sở giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận, đồng ý lập thành văn bản là Hợp đồng tặng cho QSDĐ, Giấy ủy quyền và được Văn phòng công chứng Phú Mỹ công chứng, chứng thực theo quy định”. Tuy nhiên, không nói rõ về giấy ủy quyền và hợp đồng tặng cho. Trong khi, hồ sơ thể hiện 2 văn bản này có được Văn phòng Công chứng Phú Mỹ chứng thực ngày 3/8/2022.
Sổ đỏ hộ Lê Văn Ba ngày 23/3/2001 và Sổ đỏ của ông Lê Văn Ba ngày 26/8/2022. |
1. Về Giấy ủy quyền, thể hiện: ông Lê Văn Ba, bà Lê Thị Xuân ủy quyền cho ông Phạm Hoàng Sơn thực hiện các thủ tục liên quan đến việc ông Ba tặng cho bà Xuân tặng quyền sử dụng đất các thửa đất của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BO 595711 số vào sổ cấp Giấy chứng nhận: CH00012 do UBND huyện Công Đông, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 19/9/2013 cho hộ Lê Văn Ba.
2. Về Hợp đồng tặng cho QSDĐ (không có tài sản gắn liền với đất), thể hiện: Bên tặng cho: Lê Văn Ba (bên A); Bên được tặng cho: Lê Thị Xuân (bên B). Tặng quyền sử dụng đất của bên A theo Giấy chứng nhận cấp ngày 19/9/2013 cho hộ Lê Văn Ba nói trên.
Tuy nhiên, thực tế việc ủy quyền và lập hợp đồng tặng cho nói trên, không được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản (có công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật). Sự thật này, thể hiện: Việc ủy quyền và lập hợp đồng tặng cho nói trên có dấu hiệu không đúng quy định Khoản 5, Điều 14 Thông tư số: 02/2015/TT-BTNMT ngày 27/1/2015: “Người có tên trên Giấy chứng nhận QSDĐ của hộ gia đình hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự chỉ được thực hiện việc kí hợp đồng, văn bản giao dịch về QSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất khi đã được các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đó đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật”.
Mặt khác, ngày 26/8/2022, Sở TN&MT cấp Giấy chứng nhận số vào sổ CS03223 cho ông Ba. Nhưng trước đó (ngày 3/8/2022), ông Ba đã lập Giấy ủy quyền và Hợp đồng tặng cho đối với QSDĐ của Giấy chứng nhận ngày 26/8/2022. Điều mâu thuẫn này là rõ ràng, sao Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang không đề cập tới?
Có thể thấy, Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang căn cứ giấy ủy quyền và hợp đồng tặng cho nói trên để cấp Giấy chứng nhận số vào sổ CS03222 ngày 26/8/2022 cho bà Xuân đối với thửa đất số 551, diện tích 364m2 đất nằm trong Giấy chứng nhận cấp ngày 19/9/2013 cho hộ Lê Văn Ba, là có dấu hiệu chưa phù hợp với quy định pháp luật. Sự thật này, không thể nói Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Tiền Giang không biết, nhưng lại không xem xét, xử lí đối với dấu hiệu trái luật nói trên, mà “vội vàng” đề nghị TAND tỉnh Tiền Giang xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của tôi - Lê Văn Ba?
Từ các lẽ trình bày trong đơn trên đây, là cơ sở để tôi trân trọng kính đề nghị Qúy Tòa án xem xét, giải quyết những yêu cầu trong đơn khởi kiện của tôi”.
Thực hiện Điều 5 Luật Người cao tuổi năm 2009, Tạp chí Người cao tuổi trân trọng kính đề nghị TAND tỉnh Tiền Giang giải quyết nguyện vọng của người cao tuổi là ông Lê Văn Ba; thông báo kết quả để Tạp chí trả lời người cao tuổi và bạn đọc theo quy định.