Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 14 của Tổng Bí thư Tô Lâm
Vấn đề hôm nay 23/10/2025 14:25
Tháo gỡ những điểm nghẽn...
Trình bày Tờ trình dự án Luật Phá sản (sửa đổi), ông Lê Minh Trí, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao cho biết, việc xây dựng Luật Phá sản (sửa đổi) nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định còn vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, tháo gỡ những điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, tuyên bố phá sản và kết thúc hoạt động kịp thời những doanh nghiệp, hợp tác xã không còn khả năng phục hồi, nhằm khơi thông nguồn lực, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia...
![]() |
| Quốc hội làm việc tại Hội trường nghe Tờ trình về dự án Luật Phá sản (sửa đổi) sáng ngày 23/10. |
Theo đó, Dự thảo Luật được thiết kế gồm 89 điều, 8 chương, trong đó bổ sung mới 22 điều, sửa đổi, bổ sung 62 điều, giữ nguyên 5 điều, trong quá trình xây dựng dự án Luật Phá sản (sửa đổi) còn có 03 nội dung ý kiến khác nhau.
Về tên gọi của Luật, hiện có hai quan điểm: Quan điểm thứ nhất đề nghị giữ nguyên tên Luật Phá sản hiện hành, và quan điểm thứ hai đề nghị đổi tên thành Luật Phục hồi, Phá sản.
“Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế Tài chính Quốc hội và nhiều ý kiến đồng tình với Tòa án nhân dân tối cao cho rằng cần thiết phải sửa tên Luật thành Luật Phục hồi, Phá sản để đảm bảo phù hợp với việc mở rộng phạm vi quy định bổ sung chế định phục hồi là một thủ tục độc lập với thủ tục phá sản trong Dự án Luật, và phù hợp với xu thế của thế giới về tên gọi của Dự thảo Luật. Đồng thời, đảm bảo đúng mục tiêu, định hướng xây dựng Luật là khuyến khích, ưu tiên phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã”, ông Lê Minh Trí cho hay.
Về chi phí phục hồi, phá sản và tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản (Điều 20 của Dự thảo Luật): Chánh án Toà án nhân dân tối cao đánh giá, một trong những điểm nghẽn dẫn đến đình trệ vụ việc phá sản là vấn đề tạm ứng, chi trả chi phí phá sản trong những trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tiền, tài sản để nộp, hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản nhưng không thể bán để bảo đảm chi phí phá sản.
Để giải quyết vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan thẩm tra, Tòa án nhân dân tối cao và nhiều cơ quan nhất trí quy định này trong trường hợp trên do ngân sách nhà nước bảo đảm, và kinh phí này được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm của Tòa án.
Việc dự toán, quản lý, sử dụng, tạm ứng, thanh toán kinh phí được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về chi phí tố tụng. Đối với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản thì tiền tạm ứng chi phí phá sản sẽ được hoàn trả ngay vào ngân sách nhà nước khi bán được tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
“Tuy nhiên, có ý kiến khác đề nghị nguồn chi trả tạm ứng chi phí nêu trên được bảo đảm thông qua Quỹ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ”, ông Lê Minh Trí nêu rõ.
Về giải quyết tranh chấp trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản tại Điều 60 của Dự thảo Luật, ông Lê Minh Trí nhận định, thực tiễn giải quyết phá sản cho thấy tình trạng các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã còn phải trải qua nhiều cấp xét xử dẫn tới chậm được giải quyết dứt điểm là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết vụ việc phá sản ách tắc kéo dài.
Để giải quyết vấn đề này, Dự thảo Luật quy định giao Tòa án đang giải quyết phá sản giải quyết toàn bộ các tranh chấp mà Tòa án, Trọng tài đã đình chỉ và các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản theo trình tự, thủ tục rút gọn quy định tại Luật Phá sản mà không theo trình tự, thủ tục tố tụng quy định tại các luật tố tụng khác.
Đại diện cơ quan thẩm tra dự án Luật Phá sản (sửa đổi), ông Phan Văn Mãi - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính (KTTC) cho rằng, dự án Luật đã cơ bản đáp ứng theo yêu cầu và đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến, đồng thời đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Tòa án Nhân dân Tối cao và Cơ quan chủ trì thẩm tra để có ý kiến kịp thời trong quá trình rà soát, chỉnh lý dự thảo Luật và hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật, nhất là đối với những nội dung giao Chính phủ quy định chi tiết tại dự thảo Luật để bảo đảm tính khả thi và chất lượng tốt nhất trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10.
![]() |
| Ông Lê Minh Trí, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Trình bày Tờ trình Dự án Luật Phá sản (sửa đổi). |
Đa số thành viên Uỷ ban KTTC tán thành với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật theo hướng xây dựng, hoàn thiện thủ tục phục hồi là thủ tục độc lập được thực hiện trước thủ tục phá sản. Tuy nhiên, việc tách thủ tục phục hồi thành thủ tục độc lập được thực hiện trước thủ tục phá sản là chưa phù hợp với thực tiễn, không khả thi, có thể dẫn đến việc lạm dụng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong giai đoạn phục hồi, kéo dài thời gian giải quyết vụ việc phá sản. Do đó, đề nghị quy định về thủ tục phục hồi là một khâu trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản.
Về nguyên tắc cơ bản và chính sách của Nhà nước, Chủ nhiệm Uỷ ban KTTC đánh giá, trên cơ sở ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra sơ bộ, dự thảo Luật đã được tiếp thu theo hướng Nhà nước có chính sách hỗ trợ về thuế, tín dụng, lãi suất, tài chính, đất đai và các biện pháp hỗ trợ khác cho doanh nghiệp, hợp tác xã gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh.
Căn cứ vào khả năng cân đối nguồn lực của Nhà nước trong từng thời kỳ, Chính phủ xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã. Quy định này nhằm tái cơ cấu, khôi phục hoặc chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã một cách có trật tự, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, lành mạnh hóa nền kinh tế.
Đối với khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ, mất khả năng thanh toán, một số ý kiến cho rằng, 06 tháng là khoảng thời gian hợp lý để doanh nghiệp, hợp tác xã xác định có nguồn tiền để thanh toán khoản nợ đến hạn hay không; trước khi rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán thì doanh nghiệp, hợp tác xã phải tự xác định được tình trạng khó khăn của mình và có thời gian chủ động cân đối tài chính trước khi nộp đơn đề nghị Tòa án được áp dụng thủ tục phục hồi hoặc thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, một số ý kiến khác đề nghị nghiên cứu quy định về phân loại nợ của Ngân hàng Nhà nước đối với khoản nợ vay để chỉnh lý khái niệm mất khả năng thanh toán tại dự thảo Luật cho phù hợp, thống nhất.
Liên quan đến áp dụng thủ tục phục hồi, phá sản rút gọn, theo ông Phan Văn Mãi, tại Điều 2 của dự thảo Luật đã được tiếp thu theo hướng không áp dụng quy định về thủ tục phục hồi, thủ tục phục hồi rút gọn của Luật này đối với tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm.
Bên cạnh đó, tại điểm e khoản 2 Điều 70 của dự thảo Luật đã bổ sung trường hợp cơ quan thuế và cơ quan bảo hiểm xã hội khi nộp đơn yêu cầu thủ tục phá sản theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 38 của dự thảo Luật thì được áp dụng thủ tục phá sản rút gọn nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.