Người cao tuổi Việt Nam luôn noi gương Bác về tự học và học tập suốt đời
Nghiên cứu - Trao đổi 29/08/2025 09:00
Nói về Cách mạng Tháng Tám, trong Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tại Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng vào ngày 11/2/1951, rằng: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Người cũng nhận định: “Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to lớn đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập”.
![]() |
| Mít-tinh tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19/8/1945. |
Nói về mục đích của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong “Lời kêu gọi nhân dịp kỉ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh” vào năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Mục đích Cách mạng Tháng Tám là gì? Là giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho Nhân dân ta. Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 nước ta tuyên bố độc lập. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tổng tuyển cử tự do được tổ chức, nhân dân toàn quốc ta đã bầu ra Quốc hội. Quốc hội thông qua Hiến pháp và bầu ra Chính phủ Trung ương. Chính quyền địa phương từ xã đến tỉnh đều do Nhân dân cử ra. Thế là lúc đó chúng ta đã bắt đầu thực hiện thống nhất, độc lập và dân chủ”.
Nói về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), trong “Lời kêu gọi nhân dịp kỉ niệm Cách mạng Tháng Tám và Ngày Quốc khánh” vào năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mục đích kháng chiến là để giữ lấy và phát triển những thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, tức là hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ”.
Nói về tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, trong tác phẩm “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” (6/1/1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đó là thắng lợi to lớn của Nhân dân Việt Nam, mà cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa”.
Sự chuẩn bị lâu dài, chu đáo, kĩ lưỡng về lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến của Đảng ta trong Cách mạng Tháng Tám khiến Giáo sư William J.Duiker, nhà sử học nổi tiếng của Mỹ, nhận định: “Chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên một cuộc cách mạng, và ở đây công lao thuộc về những người Cộng sản. Họ đã có thể chớp lấy thời cơ được mở ra vô cùng thuận lợi vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh... Chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương sở hữu ý thức về sự kịp thời và thấu hiểu được sự tinh tế có tính chiến lược của hoàn cảnh để vùng lên đúng lúc”.
![]() |
| Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, mở ra kỉ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. |
Trong cuốn sách “Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952”, khi viết về thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), nhà sử học Pháp Philippe Devillers, nhận định: “Nó còn là kết quả logic của Việt Minh trong mọi khu vực của đời sống đất nước”.
Thomas Hodgkin, trong cuốn Thế giới bàn về Việt Nam, đánh giá Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là “sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga”. Tác giả đã viết rằng: “Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời được 15 năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa… Như vậy, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kì mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”.
Tiến sĩ Sanomish Dashtsevel (Mông Cổ) nhấn mạnh trong bài tham luận hội thảo quốc tế “Việt Nam trong thế kỉ XX” tổ chức tại Hà Nội (tháng 9/2000) rằng: “Cách mạng Tháng Tám đã tạo điều kiện cho Nhân dân Việt Nam làm chủ đất nước, giành được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước. Cuộc Cách mạng Tháng Tám còn có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ ở các nước châu Á và trên thế giới”.
Nhà sử học Na Uy Stein Tonnesson trong cuốn “Cách mạng Việt Nam 1945-Roosevelt, Hồ Chí Minh và De Gaulle trong một thế giới chiến tranh” in năm 1991 nhận định: “Cuộc cách mạng ở Việt Nam năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đó còn là một cuộc cách mạng chính trị chống lại nền quân chủ thối nát và là một cuộc cách mạng xã hội chống lại chủ đất và những người thu thuế... Cách mạng Việt Nam quan trọng và không phải chỉ thuần túy trong bối cảnh Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam nằm trong những nguồn cảm hứng chủ yếu của một đường lối đấu tranh lớn khác sau chiến tranh, đó là quá trình phi thực dân hóa. Trong các cuộc cách mạng cộng sản, cách mạng của người Việt Nam nổi lên như một trong những cuộc cách mạng có sức sống và làm đảo lộn nhiều nhất”.
Ngày 2/9/1945, nghi lễ đầu hàng của quân phát xít Nhật trước quân Đồng minh được thực hiện trên chiến hạm USS Missouri (BB-63) của Hải quân Mỹ. Đến lúc đó, Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) kết thúc.
![]() |
Cũng trong ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Đặt trong bối cảnh vừa kết thúc cuộc chiến tranh thế giới đầy rẫy những mất mát đau thương với chiến thắng thuộc về phe nhân loại tiến bộ trước phe phát xít phản động, Tuyên ngôn Độc lập của nước ta (2/9/1945) có ý nghĩa không những trọng đại đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa thời đại vô cùng to lớn. Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta (2/9/1945) đã đi trước thời đại, nói lên khát vọng của các dân tộc bị áp bức.
Xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lí phổ biến, những “lẽ phải không ai chối cãi được” là “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776) và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791), Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta (2/9/1945) đã suy rộng ra là “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập Hội nghị Cựu Kim Sơn (San Francisco) ở Mỹ vào Tuyên ngôn Độc lập của nước ta đã nói lên tính thời đại to lớn. Hội nghị Cựu Kim Sơn họp từ ngày 25/4 đến 26/6/1945, gồm đại biểu của 50 nước, đã thông qua bản Hiến chương Liên Hợp Quốc (LHQ). Trong đó, nêu rõ mục đích của LHQ là giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, giải quyết các vấn đề tranh chấp và xung đột bằng biện pháp hòa bình, phát triển quan hệ hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn trọng các quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc, tăng cường hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực. Bản Tuyên ngôn Độc lập nhấn mạnh: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta (2/9/1945) đã phát triển quyền con người thành quyền dân tộc. Do đó, Tuyên ngôn Độc lập của nước ta đã có tác động định hướng và cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giành hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các dân tộc và Nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới.
Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc - Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.
Tại Hội thảo quốc tế kỉ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990, Tiến sĩ Modagat Ahmet, Giám đốc Tổ chức UNESCO phụ trách khu vực văn hóa châu Á - Thái Bình Dương, đã nhận định: “Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân loại bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại mang lại viễn cảnh và hi vọng mới cho những người đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”.