Những dấu hiệu sai phạm trong việc ban hành quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Đơn thư bạn đọc 08/03/2022 08:12
Quyết định số 2147/QĐ-UBND ngày 8/6/2021 của Chủ tịch UBND huyện Bình Đại |
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lê Văn Nghiệp (cha bà Dung) |
Nội dung tố cáo
Bà Dung là đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thị Trong (nguyên đơn), đồng thời là người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự tranh chấp về việc “yêu cầu xác định tài sản riêng trong khối tài sản chung và Yêu cầu chia di sản thừa kế” với bị đơn là các ông (bà): Lê Văn Trực, Lê Thị Yến, Lê Thị Tuyết, Lê Văn Minh, Lê Thị Nguyệt. Vụ án được xét xử sơ thẩm lần đầu vào năm 2016, trải qua nhiều phiên xét xử, hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Hiện vụ án đã được giải quyết bằng Bản án phúc thẩm số 280/2017/DS-PT ngày 13/11/2017 của TAND tỉnh Bến Tre.
Nội dung vụ án liên quan đến phần diện tích đất 10.249,8 m2, thửa số 155 tờ bản đồ số 2 (theo số liệu mới thuộc thửa 39, 281-287 tờ bản đồ số 13) xã Phú Long, được UBND huyện Bình Đại cấp GCNQSDĐ ngày 18/6/2007 cho ông Lê Văn Nghiệp đứng tên. Toàn bộ diện tích tại thửa đất trên được bà Huỳnh Thị Trong và ông Lê Văn Nghiệp (cha mẹ đẻ của bà Dung) canh tác sử dụng. Nguồn gốc đất trên là của ông Huỳnh Văn Do và bà Võ Thị Nữ (ông bà ngoại bà Dung) cho bà Trong năm 1966 ½ diện tích đất, ½ diện tích còn lại do bà Trong và ông Nghiệp sang nhượng của bà Huỳnh Thị Hai năm 1975.
Ngày 23/11/2011, ông Nghiệp và bà Trong lập di chúc chung để lại cho con gái là bà Dung phần đất thuộc thửa đất số 155 tờ bản đồ số 2 có chiều ngang 45 m chiều dài hết đất; vị trí thuộc thửa 287a, 287, 39-1, 39, 285, 286-1 tờ bản đồ số 13 (theo số liệu mới) có diện tích 3521,1 m2 .
Sau khi ông Nghiệp chết, toàn bộ thửa đất số 155 do bà Dung và mẹ là bà Trong quản lý, sử dụng đến tận bây giờ.
Bản án số 19/2016/DS-ST ngày 27/4/2016 của TAND huyện Bình Đại xác định toàn bộ diện tích đất ở thửa 155 tờ bản đồ số 2 là tài sản chung của ông Nghiệp và bà Trong.
Bản án số 173/2016/DS-PT ngày 9/8/2016 của TAND tỉnh Bến Tre quyết định: Hủy bản án sơ thẩm số 19/2016/DS-ST, giao hồ sơ cho TAND huyện Bình Đại xử sơ thẩm lại.
Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2017/DS-ST ngày 25/8/2017 của TAND huyện Bình Đại, nhận định toàn bộ diện tích đất tại thửa 155 là tài sản chung của ông Lê Văn Nghiệp, Lê Văn Được, Lê Văn Trực, Lê Thị Yến, Lê Thị Tuyết và Lê Thị Dung. Tuyên bố di chúc của ông Nghiệp và bà Trong lập ngày 23/11/2011 cho con gái Lê Thị Dung vô hiệu, mặc dù di chúc có chứng thực của UBND xã Phú Long.
Di chúc có chứng thực của UBND xã Phú Long |
Bản án dân sự phúc thẩm số 280/2017/DS-PT ngày 13/11/2017 của TAND tỉnh Bến Tre |
Bản án dân sự phúc thẩm số 280/2017/DS-PT ngày 13/11/2017 của TAND tỉnh Bến Tre quyết định giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 40/2017/DS-ST ngày 25/8/2017 của TAND huyện Bình Đại, có nội dung như sau:
“[…] [13] Kiến nghị UBND huyện Bình Đại điều chỉnh GCNQSDĐ thuộc thửa 155 tờ bản đồ số 2 (số liệu mới thuộc thửa 39, 281-287 tờ bản đồ số 13) xã Phú Long mang tên ông Lê Văn Nghiệp sang cho bà Huỳnh Thị Trong, Le Thị Dung, Lê Văn Được, Lê Văn Trực, Lê Thị Tuyết, Lê Thị Yến khi đương sự có yêu cầu.[…]”
Toàn bộ nội dung phần quyết định của Bản án phúc thẩm số 280/2017/DS-PT không có bất kỳ nội dung nào tuyên buộc bà Trong và bà Dung phải giao lại phần diện tích đất đang quản lý, sử dụng cho các bị đơn. Trong phần Quyết định của bản án liên quan đến GCNQSDĐ số H 00952 tại thửa đất số 155 tờ bản đồ số 2 đã được cấp cho ông Nghiệp ngày 18/6/2007 cũng chỉ thể hiện Hội đồng xét xử “kiến nghị UBND huyện Bình Đại điều chỉnh GCNQSDĐ … khi đương sự có yêu cầu”.
Từ thời điểm bản án có hiệu lực đến nay, bà Dung và mẹ vẫn sinh sống, quản lý, sử dụng phần diện tích đất nói trên và không hề nhận bất cứ một văn bản yêu cầu nào của Cơ quan thi hành án về việc thi hành Bản án phúc thẩm số 280/2017/DS-PT. Lý do: Vì Bản án số 280/2017/DS-PT ngày 13/11/2017 của TAND tỉnh Bến Tre không thi hành án được, toàn bộ thửa đất số 155 tờ bản đồ số 2 diện tích 9.550 m2 xã Phú Long do bà Trong và bà Dung đang quản lý, sử dụng mà Toà án không tuyên buộc bà Trong và bà Dung giao đất cho bị đơn, nên Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện Bình Đại không thi hành án được.
Bà Dung cho biết: “Tôi có đến Chi cục THADS huyện Bình Đại hỏi, Trưởng Chi cục THADS huyện Bình Đại cho biết, các bị đơn có gửi đơn yêu cầu thi hành án nhưng Chi cục trả lời: Chi cục không thi hành án được. Lý do đất bà Huỳnh Thị Trong và Lê Thị Dung đang quản lý, sử dụng mà Toà án không buộc bà Trong và bà Dung giao đất cho bị đơn, nên Chi cục THADS huyện Bình Đại không thi hành án được”.
Ngày 8/6/2021,UBND huyện Bình Đại ban hành Quyết định số 2147/QĐ-UBND về việc hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông Nghiệp. Lý do được nêu ra là thực hiện Bản án số 280/2017/DS-PT ngày 13/11/2017 của TAND tỉnh Bến Tre. Mặc dù vậy, tại thời điểm đó bà Dung và bà Trong không hề biết rằng UBND huyện Bình Đại đã ra quyết định hủy GCNQSDĐ số H00952. Mãi cho đến sau này khi biết được ông Lê Văn Trực, bà Lê Thị Yến, bà Lê Thị Tuyết, ông Lê Văn Được đã được cấp GCNQSDĐ mới; và bà Dung nhiều lần liên hệ với Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Bình Đại để yêu cầu cung cấp thông tin thì mới nhận được Quyết định số 2147 trên.
Quyết định số 2147/QĐ-UBND ngày 8/6/2021 của Chủ tịch UBND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre |
Nhiều dấu hiệu sai phạm từ Quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Việc Chủ tịch UBND huyện Bình Đại ban hành Quyết định số 2147 nói trên thể hiện nhiều dấu hiệu vi phạm và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Dung, bà Trong.
Thứ nhất: Vi phạm thời hạn bàn giao quyết định hủy GCNQSDĐ
Quyết định số 2147/QĐ-UBND ngày 8/6/2021 của UBND huyện Bình Đại về việc hủy GCNQSDĐ có ghi: “...Điều 2. Căn cứ vào Điều 1 của Quyết định này, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường, Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Bình Đại và Chủ tịch UBND xã Phú Long có trách nhiệm tổ chức thực hiện các công việc sau: Công bố và trao quyết định này đến gia đình ông Lê Văn Nghiệp. Thực hiện việc chỉnh lý hồ sơ địa chính theo đúng quy định.”
Nhưng, kể từ khi Quyết định này được ban hành, gia đình ông Nghiệp không được biết đến sự việc này, mà đến giữa tháng 9/2021, tức là hơn 3 tháng sau khi có Quyết định hủy giấy chứng nhận, bà Dung và bà Trong mới được biết. Lý do biết huỷ GCNQSDĐ: Do bị đơn Lê Văn Trực đến nhà nói với bà Trong, là GCNQSDĐ của ông Nghiệp đã bị huỷ và cấp lại GCNQSDĐ mới cho các bị đơn hết rồi.
Vào thời điểm này tại địa phương phải thực hiện cách ly phòng, chống dịch COVID-19 theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, bà Dung không thể trực tiếp đến, mà gọi điện cho Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Bình Đại để yêu cầu cung cấp thông tin, nhưng bị từ chối cho đây là chuyện bí mật không nói được. Sau đó bà Dung gọi điện đến nơi làm thủ tục cấp GCNQSDĐ nhưng nơi đây cũng từ chối, mà cho bà Dung số điện thoại của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện. Sau nhiều lần bà Dung gọi điện phản ánh, cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện hướng dẫn bà Dung đến phòng Tài nguyên và Môi trường nhận quyết định huỷ GCNQSDĐ của ông Nghiệp.
Như vậy, sự việc trên hoàn toàn đi ngược lại với quy định tại Điều 2 của Quyết định số 2147. Đồng thời, còn có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng về cung cấp thông tin đất đai theo quy định tại khoản 3 Điều 28 Luật Đất đai năm 2013. Theo đó: “...3. Thông báo quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai cho tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp....”
“Rõ ràng việc công bố và trao quyết định hủy giấy chứng nhận là trách nhiệm của Phòng Tài nguyên và Môi trường cũng như chính quyền xã Phú Long và gia đình tôi có quyền lợi hợp pháp, chính đáng liên quan để nhận quyết định này. Thế nhưng, phía Phòng Tài nguyên và Môi trường lại lợi dụng tình hình dịch bệnh và sự thiếu hiểu biết pháp luật của người dân như tôi để nại ra lý do là quyết định trên là bí mật của cơ quan Nhà nước, để cố tình không cung cấp cho tôi”, bà Dung bức xúc.
Thứ hai: Không đảm bảo về thủ tục thi hành án theo quy định của pháp luật về THADS
Về nội dung trong Bản án số 280/2017/DS-PT ngày 13/11/2017, TAND tỉnh Bến Tre tuyên: “Kiến nghị UBND huyện Bình Đại điều chỉnh GCNQSDĐ thuộc thửa 155 tờ bản đồ số 2 (số liệu mới thuộc thửa 39, 281-287 tờ bản đồ số 13) xã Phú Long mang tên ông Lê Văn Nghiệp sang cho bà Huỳnh Thị Trong, Lê Thị Dung, Lê Văn Được, Lê Văn Trực, lê Thị Tuyết, Lê Thị Yến đối với phần tài sản nói trên thuộc quyền sử dụng đất hợp pháp của bà Huỳnh Thị Trong, Lê Thị Dung, Lê Văn Được, Lê Văn Trực, Lê thị Tuyết, Lê Thị Yến khi đương sự có yêu cầu”.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Luật THADS thì bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm đã có hiệu lực là văn bản được thi hành. Căn cứ theo Điều 35 Luật THADS 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 thì thẩm quyền thi hành án thuộc về cơ quan THADS các cấp. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định tại Điều 11 Luật THADS thì: “Điều 11. Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS, Chấp hành viên. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan THADS trong việc thi hành án.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan THADS, Chấp hành viên theo quy định của Luật này. Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan THADS, Chấp hành viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, việc tổ chức thực hiện THADS trong trường hợp này thuộc về Chi cục THADS huyện Bình Đại. Riêng đối với nội dung kiến nghị UBND huyện Bình Đại điều chỉnh GCNQSDĐ nói trên thì UBND huyện Bình Đại được xác định là cơ quan có liên quan trong việc thi hành án. Điều 174 Luật THADS quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện trong THADS như sau: “Điều 174. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện trong THADS. 1. Chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong THADS trên địa bàn; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong THADS.”
UBND huyện Bình Đại được quy định là cơ quan có trách nhiệm tổ chức phối hợp với Chi cục THADS huyện Bình Đại. Vấn đề tổ chức thi hành án theo Bản án được thực hiện trên cơ sở Quyết định thi hành án của Chi cục THADS. Sau đó, Chi cục THADS sẽ có văn bản trình đến UBND huyện để đề nghị phối hợp đối với nội dung bản án có liên quan.
Tuy nhiên, có thể thấy trong Quyết định số 2147/QĐ-UBND, căn cứ để ban hành Quyết định hoàn toàn không đề cập đến nội dung này. Toàn bộ các thông báo hay quyết định, hồ sơ tài liệu có liên quan đều không thể hiện việc cơ quan THADS yêu cầu UBND huyện Bình Đại tổ chức thực hiện việc thi hành án. Ngoài ra, trong quá trình tiến hành thủ tục cấp GCNQSDĐ mới cho các bị đơn, phía UBND huyện Bình Đại đã không tiến hành đo vẽ, xác định lại ranh giới thửa đất trên thực tế mà chỉ dựa vào nội dung xác định trong bản án phúc thẩm để tiến hành công nhận quyền sử dụng đất cho các bị đơn. Điều này hoàn toàn trái với quy định của pháp luật về trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ.
Thứ ba: Thi hành không đúng nội dung bản án có hiệu lực của Tòa án
Như đã nói, Bản án số 280/2017/DS-PT ngày 13/11/2017 của TAND tỉnh Bến Tre đã thể hiện rõ việc chỉ Kiến nghị UBND huyện Bình Đại “điều chỉnh” GCNQSDĐ nêu trên. Toàn bộ nội dung bản án hoàn toàn không đề cập đến việc yêu cầu UBND huyện Bình Đại “hủy” GCNQSDĐ đã cấp trước đó.
Nội dung liên quan đến GCNQSDĐ thuộc thửa đất số 155 tờ bản đồ số 2 Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ “kiến nghị” UBND huyện Bình Đại điều chỉnh giấy chứng nhận chứ không có tuyên “Buộc” UBND huyện Bình Đại điều chỉnh GCNQSDĐ. Như vậy, việc sử dụng từ kiến nghị ở đây chỉ là ý kiến không mang giá trị bắt buộc thi hành. Qua đó, có thể thấy về mặt quy định pháp luật GCNQSDĐ số H00952 được cấp không hề trái với quy định pháp luật. Vì thế, trong bản án Tòa án phúc thẩm không hề đề cập đến việc ra quyết định bắt buộc phải điều chỉnh GCNQSDĐ nói trên.
Thêm vào đó, bản án phúc thẩm không hề yêu cầu UBND huyện Bình Đại hủy GCNQSDĐ số H00952 mà chỉ kiến nghị UBND huyện điều chỉnh GCNQSDĐ trên do có sự thay đổi về chủ thể có quyền sử dụng đất. Hệ quả pháp lý của việc điều chỉnh và hủy giấy chứng nhận hoàn toàn khác nhau. Việc điều chỉnh giấy chứng nhận chỉ làm thay đổi một số nội dung chưa chính xác trên giấy chứng nhận, các nội dung khác không bị ảnh hưởng. Trong khi việc hủy giấy chứng nhận sẽ làm vô hiệu toàn bộ các nội dung thể hiện trong GCNQSDĐ. Việc điều chỉnh giấy chứng nhận theo kiến nghị của Hội đồng xét xử chỉ phải thực hiện thủ tục đính chính GCNQSDĐ theo khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 chứ không bắt buộc phải hủy GCNQSDĐ đó.
Căn cứ theo nội dung Bản án của TAND tỉnh Bến Tre đối với vụ án trên thì chỉ thuộc trường hợp phải đính chính nội dung trên GCNQSDĐ thay vì thực hiện thủ tục hủy giấy chứng nhận như cách mà Chủ tịch UBND huyện Bình Đại đã làm. Cho nên, việc Chủ tịch UBND huyện Bình Đại ra Quyết định hủy GCNQSDĐ, là thể hiện trái với quy định của pháp luật.
Hơn nữa, nội dung bản án cũng có nêu, việc điều chỉnh GCNQSDĐ chỉ thực hiện khi đương sự có yêu cầu. Ở đây, UBND huyện Bình Đại cho rằng do có tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ của ông Lê Văn Trực, bà Lê Thị Yến, bà Lê Thị Tuyết và ông Lê Văn Được vào ngày 25/3/2020 nên có cơ sở để hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông Lê Văn Nghiệp. Tuy nhiên, như đã nói, việc thi hành một bản án do cơ quan thi hành án có thẩm quyền tổ chức thực hiện, cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương chỉ có trách nhiệm phối hợp thực hiện. Do đó, UBND huyện Bình Đại không phải là cơ quan có thẩm quyền thi hành bản án phúc thẩm số 280/2017/DS- PT. Đồng thời, nếu xét về nội dung trong quyết định bản án này thì yêu cầu của các đương sự đối với điều chỉnh GCNQSDĐ là khi đương sự có yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền chứ không phải khi đương sự yêu cầu đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai hay UBND huyện Bình Đại. Và cơ quan có thẩm quyền ở đây chính là Chi cục THADS huyện Bình Đại.
Do đó, việc Chủ tịch UBND huyện Bình Đại tự ý ban hành Quyết định số 2147/QĐ-UBND là không đúng với nội dung bản án, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Dung và bà Trong. Hành vi này có dấu hiệu vi phạm quy định tại Điều 4 Luật THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014. Theo đó: “Điều 4. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định, Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án.”
Thứ tư: Có dấu hiệu của hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Việc Chủ tịch UBND huyện Bình Đại tùy ý ban hành Quyết định huỷ GCNQSDĐ có dấu hiệu làm trái với quy định pháp luật như phân tích ở trên, là có dấu hiệu của Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 360 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: “1. Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.’’
Bà Dung bức xúc: “Chủ tịch UBND huyện Bình Đại, người có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm, không xem xét rõ sự tình, không tôn trọng nội dung bản án có hiệu lực pháp luật, không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao dẫn đến quyền lợi của gia đình tôi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hơn nữa, mẹ tôi, bà Huỳnh Thị Trong cũng vì chuyện này khiến sức khỏe vốn đã mang chứng bệnh tim, cao huyết áp gặp phải cú sốc lớn từ việc bị hủy GCNQSDĐ, bị tước đoạt hoàn toàn quyền sử dụng đất mà bị uất ức, tăng huyết áp rồi đột quỵ chết đi sau ngày biết được sự việc. Có thể thấy, mẹ tôi đã phải gánh chịu một cú sốc rất lớn khi đã phải trải qua quá trình đấu tranh, tìm lại công bằng, nhưng cuối cùng lại chỉ vì sự thiếu trách nhiệm của Chủ tịch UBND huyện Bình Đại dẫn đến việc ban hành một Quyết định có nhiều dấu hiệu sai phạm làm tôi và mẹ tôi, bà Huỳnh Thị Trong bị mất hoàn toàn quyền và lợi ích hợp pháp.
Bà Huỳnh Thị Trong bị uất ức, tăng huyết áp rồi đột quỵ chết đi sau ngày biết được sự việc |
Tôi cảm thấy hết sức hoang mang và lo lắng bởi hậu quả đã xảy ra là các bị đơn đã thay cơ quan thi hành án “tự thi hành án”, lợi dụng lúc tôi đi vắng (đi nhà thờ theo thông lệ giờ ngày chúa nhật) bị đơn Lê Văn Được đã tự ý xây dựng cột bê tông giăng lưới “B40”, lập hàng rào để chiếm lấy phần đất mà cha mẹ tôi là ông Lê Văn Nghiệp và bà Huỳnh Thị Trong đã lập di chúc để lại tài sản cho tôi phần đất tôi đang quản lý, sử dụng. Thậm chí hàng rào chắn ngang lối đi vào nhà phía sau, làm cản trở sinh hoạt và bảo vệ tài sản gia đình tôi, nhốt tài sản “máy đèn” trong nhà kho của gia đình tôi nay thuộc về bên phía hàng rào của bị đơn Lê Văn Được (xem hình dưới đây).
| ||
Một số hình ảnh ghi nhận sự việc các bị đơn lợi dụng thời gian bà Dung đi vắng, tự ý dựng cột bê tông, giăng lưới B40 để lập hàng rào chiếm đất đang do gia đình bà Dung quản lí, sử dụng và bít mất lối đi ra phia sau nhà |
Nay, căn cứ theo Điều 22 Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 và Điều 13 Luật tố cáo 2018, tôi kính đề nghị Quý Chủ tịch tỉnh Bến Tre xem xét, giải quyết: Buộc Chủ tịch UBND huyện Bình Đại thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 2147/QĐ-UBND ban hành ngày 8/6/2021 về việc hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông Lê Văn Nghiệp. Tiến hành thủ tục công nhận lại quyền sử dụng đất theo GCNQSDĐ số H00952 đã được UBND huyện Bình Đại cấp ngày 18/6/2007 cho ông Lê Văn Nghiệp, đối với thửa đất số 155, tờ bản đồ số 2, tại xã Phú Long. Xem xét kiểm tra, xử lý trách nhiệm của Chủ tịch UBND huyện Bình Đại trong việc thi hành không đúng nội dung bản án của Tòa án cấp phúc thẩm”.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin kết quả giải quyết đơn tố cáo; góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của gia đình người cao tuổi (ông Lê Văn Nghiệp, bà Huỳnh Thị Trong nay đã chết), đang do con gái là bà Lê Thị Dung đại diện.