Lẽ ra đã không có thảm họa tháng 12/1972
Nghiên cứu - Trao đổi 30/12/2022 09:50
Suốt 2 ngày 9 và 10/10/1972, mỗi ngày làm việc 16 tiếng, hai đoàn đàm phán đã đi đến hoàn chỉnh bản hiệp định. Trong tay cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và tiến sĩ Kít-xinh-giơ đã có một “thời gian biểu” đi đến kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Cụ thể:
Ngày 18/10/1972, Mỹ ngừng ném bom và thả thủy lôi trên các cảng Bắc Việt Nam;
Ngày 19/10/1972, cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và tiến sĩ Kít-xinh-giơ kí tắt tại Hà Nội; ngày 26/10/1972, Bộ trưởng ngoại giao hai nước sẽ kí chính thức tại Pa-ri; ngày 27/10/1972, ngừng bắn ở Việt Nam.
Đây là một kế hoạch nội bộ, phổ biến phạm vi rất hẹp. Thế giới chưa hề hay biết. Lực lượng tham chiến của Mỹ ở chiến trường Việt Nam cũng không hề biết. Hòa bình đang đến rất gần.
Ngày 11/10/1972, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ (JCS) còn ra lệnh cho máy bay Mỹ đánh phá vào trung tâm Hà Nội. Cơ quan đại diện Cộng hòa Pháp tại phố Bà Triệu bị bom Mỹ phá hủy nặng nề, ông Tổng Đại diện Pi-e-rơ Su-xi-ni bị tử thương. Chính phủ Pháp lên tiếng phản đối. Dư luận Mỹ và thế giới phẫn nộ. Ngay hôm đó, thêm nhiều giờ làm việc căng thẳng, phía Mỹ đề nghị hoãn ngày kí tắt đến 22/10 và ngày kí chính thức là 30/10/1972. Sẵn có thiện chí, đồng chí Lê Đức Thọ đã đồng ý cho họ “lùi lại” như vậy.
Ngày 12/10/1972, Kít-xinh-giơ về Mỹ. Ngày 16/10/1972, Kít-xinh-giơ trở lại Pa-ri. Ngày 18/10, ông ta cùng đoàn tùy tùng gồm đô đốc Ghê - lơ là tư lệnh quân Mỹ ở Thái Bình Dương, Ha-bip và A-bram là cựu tư lệnh quân đội Mỹ ở Việt Nam…sang Sài Gòn gặp Nguyễn Văn Thiệu, dự kiến sau đó Kít-xinh-giơ bay ra Hà Nội kí tắt.
Nếu mọi việc diễn ra theo kế hoạch thì ngày 31/10/1972 đã là ngày hòa bình đầu tiên trên đất nước ta. Cái ngày vui sướng huy hoàng cho cả dân tộc, ước ao mong đợi hơn bao giờ hết của mấy chục triệu người Việt Nam và cả bao con tim yêu chuộng hòa bình trên thế giới sắp đến.
Thế mà, ngày 26/10/1972, Chính phủ ta không thể nhân nhượng được nữa, đã phải tuyên bố: Đáng lẽ hiệp định hòa bình sẽ được kí kết vào ngày 26/10/1972, nhưng phía Mỹ đã tìm cách trì hoãn. Sau khi công bố nội dung hiệp định, Chính phủ ta cảnh cáo thái độ thiếu nghiêm chỉnh của Chính phủ Mỹ, buộc họ phải thực hiện những điều đã cam kết, tiếp tục kí kết vào ngày 31/10/1972.
Vậy ai đã trì hoãn, cản trở việc kí kết Hiệp định hòa bình? Trong hồi kí của mình, Kít-xinh-giơ cho rằng Nguyễn Văn Thiệu đã chống lại việc kí kết Hiệp định, rằng Mỹ không thể kí khi đang “bất đồng” với “đồng minh”. Thực ra gọi là “đồng minh” nhưng Nguyễn Văn Thiệu từ lâu chỉ là ông chủ chính quyền bù nhìn, làm theo ý quan thầy Mỹ.
Trên chính trường nước Mỹ, thời gian này vô cùng nhạy cảm, chỉ còn 11 ngày nữa (ngày 7/11/1972) cử tri Mỹ sẽ bầu cử Tổng thống, phái diều hâu cố dốc lực chạy đua ở đoạn đường cuối cùng vào Nhà Trắng. Kít-xinh-giơ là người trợ tá đắc lực luôn hậu thuẫn cho Nich-xơn đã vận dụng nhiều mưu mô và kĩ xảo, tổ chức họp báo đánh lừa dư luận rằng chính Tổng thống Nich-xơn là người “tin rằng hòa bình đã ở trong tầm tay”. Cuộc bầu cử ấy, Nich-xơn tái thắng cử, lại chắc một nhiệm kì làm ông chủ Nhà Trắng. Ông ta sẽ bộc lộ bản chất hiếu chiến tàn bạo với những bước phiêu lưu mới trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Qua thời hạn dự kiến kí kết ngày 30/10/1972, Nich-xơn cố tình trì hoãn để nghĩ mưu kế, tìm giải pháp. Y chỉ đạo Kít-xinh-giơ ngày 20/11/1972, trở lại Lê-giơ đàm phán với phái đoàn Việt Nam. Họ đào xới một vấn đề quá cũ đó là đòi “rút hết quân đội nước ngoài (ám chỉ bộ đội miền Bắc) ra khỏi miền Nam Việt Nam”. Trong quá trình đàm phán, họ luôn lươn lẹo, đổ lỗi; ngày 23/11, Kít-xinh-giơ nhận được lệnh “Bỏ họp” cùng thông tin kín là máy bay Mỹ tiếp tục ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Và ngay hôm sau (24/11/1972), Kít-xinh-giơ lại nhận lệnh từ Hin-dơ -man truyền đạt chỉ thị của Nich-xơn: “Họp tiếp”.
Giỏi ngụy biện quay quắt như Kít-xinh-giơ mà còn chóng mặt với ông chủ Nhà Trắng. Ở Pa-ri, Kít-xinh-giơ giở tài làm màn rối đánh lừa dư luận theo chỉ thị của bức điện mật “Ta cần tránh làm bất cứ điều gì có vẻ như chúng ta phá vỡ thương lượng một cách đột ngột. Nếu xảy ra tan vỡ, thì phải do họ gây ra chứ không phải chúng ta. Trong bất cứ trường hợp nào, phía chúng ta không được tỏ ra là bên có sáng kiến chấm dứt thương lượng”. Nghĩa là họ không có thiện chí hòa bình mà luôn tìm cách tung dư luận “gắp lửa bỏ tay người”. Trong khi ở Oa-sinh-tơn, Nich-xơn đang bí mật chuẩn bị một âm mưu khủng khiếp.
Sáng ngày 4/12/1972, không khí cuộc họp căng thẳng dù đã đổi nơi họp. Vẫn không có kết quả tốt đẹp. Ngày 5/12, Hin-dơ-man gọi cho Kít-xinh-giơ báo rằng: Nich-xơn đang nóng lòng muốn dùng B52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng.
Theo lệnh của Oa - sinh - tơn, trong phiên họp ngày 13/12/1972, Kít-xinh-giơ trắng trợn lên tiếng đe dọa nhân dân Việt Nam và tuyên bố bỏ họp vô thời hạn. Tờ Bưu điện Oa-sinh-tơn đã từng nhận xét: “Những gì mà Giôn - xơn cùng các vị tiền bối của ông ta đã kiên quyết tránh trong 15 năm hoặc hơn 15 năm qua thì Nich - xơn đã quyết định trong vòng một đêm”.
Ngày 14/12/1972, vừa từ Pa-ri về, Kit-xinh-giơ được Nich-xơn gọi ngay đến nhóm họp tại Nhà trắng, không rào đón, Nich-xơn nói tuột cho các quần thần biết ý định dùng B52 đánh vào Hà Nội và một số trọng điểm quân sự, một số nơi đông dân cư ở Hà Nội và miền Bắc. Từ ngày 18/12/1972, chúng đã mở cuộc tập kích đường không chiến lược bằng cái tên mĩ miều là “Chiến dịch Lai-nơ bách-cơ 2” (Chiến dịch cứu bóng trước khung thành 2). Thật là dã man, tàn ác. Chúng hòng khuất phục ý chí của nhân dân Việt Nam bằng bom đạn.
Đêm 18/12/1972, máy bay B-52 đã đánh từ Hòa lạc, rải thảm xuống xã Uy Nỗ, ga Yên Viên, huyện Đông Anh làm nhiều người chết, nhiều trẻ em mất cả cha mẹ. Rạng sáng 21/12/1972, máy bay B-52 rải thảm xuống An Dương, Yên Phụ, Ba Đình (nay Yên Phụ thuộc Tây Hồ), Hà Nội làm chết 371 người, 251 người bị thương, phá sập 350 căn nhà;
Ngay đêm 24/121972 trước khi dừng nghỉ lễ Nô-en nhưng B-52 Mỹ đã tàn phá ga Lưu Xá, giết chết 60 cán bộ, chiến sỹ của đại đội thanh niên xung phong 915 đang làm nhiệm vụ vận chuyển, giải tỏa hàng hóa tại đây.
Đêm 26/12/1972, máy bay B-52 rải thảm khu phố Khâm Thiên đông dân cư làm hàng trăm người chết, nhiều gia đình không sống sót một người, quá nhiều phụ nữ trẻ em, người già bị tàn sát; các số nghà 47, 49 và 51 bị san phẳng. Nay tại đây đã có đài tưởng niệm là hình ảnh bà mẹ ôm đứa trẻ cùng chết trong vô vọng, đau thương. Bệnh viện Bạch Mai cũng bị bom B52 tàn phá quá nặng nề; nhiều bác sĩ, nhân viên y tế và bệnh nhân đã tử nạn hoặc bị thương. Nhiều cảnh tượng đau lòng càng thôi thúc tinh thần chiến đấu dũng cảm bảo vệ Thủ đô, trả thù cho nhân dân của bộ đội ta cùng tự vệ thủ đô.
Ngày 30/12/1972, chính quyền Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị gặp lại đại diện Chính phủ ta tại Pa-ri, bàn việc lí hiệp định chấm dứt chiến tranh.
Cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B-52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm đã thất bại hoàn toàn. Quân và dân ta, nòng cốt là bộ đội Phòng không - Không quân đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay chiến lược B-52. Dư luận quốc tế gọi là “Trận Điện Biên Phủ trên không”.
Kết thúc chiến dịch “Linebacker 2” phía Mỹ công bố: Máy bay B-52 thực hiện 729 lần chiếc bay; máy bay yểm trợ thực hiện hơn 1000 lần chiếc bay; máy bay B-52 đã ném hơn 49.000 quả bom (20.370 tấn bom); Mỹ thiệt hại 15 máy bay B-52 và 11 máy bay chiến thuật. Ai cũng hiểu con số mà họ thừa nhận là thấp hơn nhiều so với thực tế và cái giá phải trả của cuộc chiến tranh đường không này là cực kì lớn về mặt tài chính lẫn về mặt chính trị.
18 năm sau, Mỹ lại mở chiến dịch đường không lớn gọi là “Bão táp sa mạc” ở một nước khác. Số lần chiếc máy bay B-52 tham chiến lớn gấp hai lần chiến dịch “Linebacker 2” ở Việt Nam, nhưng không chiếc B-52 nào bị bắn rơi. Như thế càng thấy chiến tích của quân và dân ta trong “Trận Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972 là to lớn và ý nghĩa đến nhường nào.