Sự toàn thắng của chiến tranh Nhân dân
Nghiên cứu - Trao đổi 20/12/2023 10:13
Phương tiện, vũ khí hiện đại nhất của Mỹ đã bị thất bại
Ngày 14/12/1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon phê chuẩn chiến dịch quân sự “Linebacker II” đánh phá ồ ạt bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương ở miền Bắc nước ta. Mục tiêu của chiến dịch này là đưa Hà Nội về “thời kì đồ đá”, để buộc ta phải ngồi lại đàm phán theo hướng có lợi cho Mỹ.
Để phục vụ cho chiến dịch quân sự “Linebacker II”, Mỹ đã huy động lực lượng lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945). Mỹ đã sử dụng 193 máy bay ném bom chiến lược B-52 (chiếm gần 50% số B-52 Mỹ có lúc đó) với tần suất 663 lần chiếc; cùng 1.077 chiếc máy bay chiến thuật (chiếm hơn 1/3 số máy bay chiến thuật Mỹ có lúc đó), với tần suất 3.920 lần chiếc. Đồng thời, nhiều tàu sân bay, tàu chiến đấu tối tân, hiện đại đã được đế quốc Mỹ sử dụng để phục vụ cho chiến dịch này. Các căn cứ của Mỹ trên đảo Guam, Thái Lan, Nhật Bản, Philippines cũng làm việc hết công suất đến phục vụ chiến dịch ném bom chiến lược này. Để chỉ huy thống nhất, đế quốc Mỹ lập Bộ chỉ huy lâm thời đóng ở căn cứ Utapao (Thái Lan) đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ chỉ huy không quân chiếc lược Mỹ và Bộ Quốc phòng Mỹ.
Biên đội Mig-21 rút kinh nghiệm sau trận bắn rơi F4 yểm hộ cho các lực lượng đánh B-52. Ảnh Tư liệu lịch sử |
Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 (từ ngày 18 đến 29/12/1972), Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc đã phải hứng chịu ước tính hơn 20.000 tấn bom tàn phá. Riêng Hà Nội, đế quốc Mỹ đã sử dụng 444 lượt máy bay B-52 cùng hàng nghìn lượt máy bay chiến thuật, ném hơn 10.000 tấn bom hủy diệt nhiều khu phố, làng mạc, phá sập 5.480 ngôi nhà, gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga, giết hại 2.380 dân thường, làm bị thương 1.355 người. Còn theo các nhà sử học quân sự Mỹ, trong 12 ngày đêm đánh phá Hà Nội, khối lượng bom đạn ném xuống nơi đây tương đương với 5 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản năm 1945.
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, bằng bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, trải qua 12 ngày đêm chiến đấu, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi tổng cộng 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B-52, 5 máy bay F111, 21 máy bay F4, 12 máy bay A7, 1 máy bay F105, 4 máy bay AD6, 1 máy bay trực thăng HH-53, 1 máy bay không người lái, bắt sống nhiều giặc lái.
Tướng George Etter, Phó chỉ huy không quân chiến lược Mỹ, thú nhận trên tạp chí US.Air Forces (Không lực Mỹ) ngày 30/12/1972: “Tổn thất về máy bay chiến lược B-52 cùng các nhân viên phi hành là hết sức nặng nề, là đòn choáng váng đánh thẳng vào những nhà vạch kế hoạch của Lầu Năm góc”. Trong hồi kí của mình, Tổng thống Richard Nixon cũng thú nhận: “Nỗi lo của tôi trong những ngày này không phải là lo những làn sóng phản đối, phê phán nghiêm khắc ở trong nước và trên thế giới, mà chính là mức độ tổn thất về máy bay B-52 quá nặng nề”.
Ngày 30/12/1972, Chính phủ Mỹ buộc phải đơn phương tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, đề nghị nối lại cuộc đàm phán Paris. Đế quốc Mỹ sau đó phải đồng ý kí Hiệp định Paris (27/1/1973).
Nguyên nhân thắng lợi quân dân ta
Ngay từ năm 1966, khi máy bay B-52 của Mỹ ném bom miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị lực lượng Phòng không-Không quân phải tìm ra cách đánh B-52. Ngày 29/12/1967, Bác lại giao nhiệm vụ cho Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân Phùng Thế Tài: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống càng sớm càng tốt để có thời gian mà chuẩn bị”.
Ngày 24/11/1972, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam lúc đó thông qua và phê chuẩn kế hoạch đánh B-52 bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng của Quân chủng Phòng không - Không quân. Đầu tháng 12/1972, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhận định: “Để gây sức ép với ta, trước sau Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ném bom Hà Nội. Quân dân ta phải kiên quyết làm thất bại âm mưu này của chúng”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, sẵn sàng đương đầu với chiến dịch “Linebacker II” của Mỹ.
Việc sử dụng lực lượng hợp lí các loại vũ khí hiện có và hợp đồng tác chiến chặt chẽ giữa Bộ đội Ra-đa, Bộ đội Tên lửa Phòng không, Bộ đội pháo Phòng không, Bộ đội Không quân tiêm kích, Lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ đã tạo ra lưới lửa phòng không, nên máy bay Mỹ dù bay ở độ cao nào, từ hướng nào, ở khung thời gian nào cũng có thể tiêu diệt chúng. Đây thực sự là nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, thể hiện sức mạnh tổng hợp của chiến tranh Nhân dân.
Trung tướng Lê Văn Tri, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân (giai đoạn 1969-1977) nhận định: “Việc tìm ra cách đánh B-52 là cả một quá trình, là công lao tập thể, từ các cơ quan trên Bộ, từ Bộ Tư lệnh và các cơ quan Quân chủng, Binh chủng xuống đến các đơn vị cơ sở... Bằng vũ khí hiện đại của Liên Xô, bằng vốn kiến thức trang bị từ ghế nhà trường, cùng với trí thông minh và lòng dũng cảm, họ đã góp phần sáng tạo nên những cách đánh có hiệu quả”. Trưởng đoàn chuyên gia Liên Xô Anatoly Ivanovich Khiupenen cũng đã nhận xét: “Trao vũ khí tên lửa cho các bạn Việt Nam là trao nó cho những bộ óc sáng tạo và những bàn tay vàng”.
Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là thắng lợi của đường lối chiến tranh Nhân dân, của thế trận phòng không nhân dân; là chiến thắng của nghệ thuật quân sự sáng tạo của Đảng và Quân đội ta. Trong cuốn sách “Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương” xuất bản ở Mỹ có lời đánh giá nổi tiếng của Giáo sư Neil Seehan: “Thắng lợi của người Việt Nam là một thí dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc”. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: “Đây là thắng lợi to lớn nhất, chiến công xuất sắc nhất của cuộc chiến tranh Nhân dân trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ… Quân dân Hà Nội, quân dân miền Bắc anh hùng đã đập tan cuộc tập kích chiến lược của Không quân Mỹ, lập nên một “Điện Biên Phủ trên không” oanh liệt, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Hiệp định Paris”.
Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc, tạo ra bước chuyển chiến lược căn bản về cục diện của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.