Hồ Xuân Hương: Từ vợ ba Tổng Cóc trở thành Danh nhân Văn hóa

Ngày 3/12, UBND tỉnh Nghệ An tổ chức lễ Vinh danh Danh nhân văn hóa và kỉ niệm 250 năm năm sinh và 200 năm năm mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Nhân dịp này, Tạp chí Người cao tuổi xin giới thiệu về nữ sĩ Hồ Xuân Hương từ vợ ba ông Tổng Cóc trở thành Danh nhân Văn hóa…

“Kén cá chọn canh” nữ sĩ trở thành vợ ba Tổng Cóc

Hồ Xuân Hương sống cuối thế kỉ XVIII, khi đó chế độ phong kiến cho phép người đàn ông có năm thê bảy thiếp, còn người phụ nữ bị trói buộc vào tư tưởng đạo giáo, trong tình yêu, hôn nhân gia đình.

Thời ấy, Nguyễn Bình Kình (Tổng Cóc) người làng Gáp, Phong Châu - đất Tổ Vua Hùng, là cháu đích tôn của Tiến sĩ Nguyễn Quang Thành. Gia đình Tổng Cóc có sản nghiệp lớn, có địa vị danh giá trong vùng. Bình Kình đã từng theo học ở Quốc Tử Giám (Kinh thành Thăng Long) đậu tú tài, giỏi thơ văn, lại là người giỏi võ, nhiều lần giật giải thi võ của làng Gáp, nên dân làng gọi là Tổng Cóc. Dáng to khỏe, điển trai, Bình Kình là giấc mơ của bao thiếu nữ trong vùng. Năm 18 tuổi, chàng đã lấy vợ, 5 năm, nàng vẫn chưa có con, thuận theo ý mẹ, Tổng Cóc đã lấy vợ lẽ.

Còn Xuân Hương nữ sĩ, nàng tài sắc, nổi danh chịu làm vợ ba Tổng Cóc không chỉ vì chàng là cháu đích tôn của tiến sĩ Nguyễn Quang Thành danh giá, không vì gia cảnh giàu có, mà vì chàng - chính mẫu người lí tưởng, là duyên phận của nàng.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương

Những bài thơ mang dấu ấn nữ quyền của Hồ Xuân Hương khi làm vợ ba ông Tổng Cóc

Trong cảnh ấy, tình ấy, những bài thơ đặc sắc, có tiếng nói nữ quyền của Hồ Xuân Hương, đã vút lên công phá thành trì những hủ tục, những ràng buộc về tình yêu, về hôn nhân gia đình với người phụ nữ.

Khi đang yêu Tổng Cóc, nữ sĩ có bài thơ “Mời trầu”, đó là tiếng nói của tình yêu, người con gái không chịu cảnh cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Nàng thơ lên tiếng: Có phải duyên nhau thì thắm lại. Thời ấy lễ giáo phong kiến không chấp nhận người phụ nữ tỏ tình trước, kiểu như “trâu đi tìm cọc”. Vậy mà Xuân Hương đã vượt lên lễ giáo phong kiến, để đòi sự bình đẳng trong tình yêu cho phái yếu, đó là tuyên ngôn về nữ quyền đòi bình đẳng trong tình yêu.

Khi đã lấy chồng, Xuân Hương cảm thông cho những cảnh đời người phụ nữ “Không chồng mà chửa” với cái nhìn cảm thông độ lượng: Cả nể cho nên hóa dở dang/ Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng?/ Thiên nhiên chưa thấy nhô đầu dọc/ Phận liễu sao đà phẩy nét ngang/ Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa/ Mảnh tình một khối thiếp xin mang/ Quản bao miệng thế lời chênh lệch/ Không có nhưng mà có mới ngoan. Đọc thơ Hồ Xuân Hương lại nhớ ca dao cổ có câu: Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường. Vận ý này của ca dao cổ, Xuân Hương khẳng định phụ nữ: Không có nhưng mà có mới ngoan”. Tư tưởng tiến bộ của nữ sĩ từ thế kỉ XVIII, đã “đòi” cho người phụ nữ được quyền làm mẹ, dù có chồng hay không, ý tưởng ấy đã trở thành hiện thực, phù hợp với đời sống hôm nay.

Bấy giờ rất nhiều phụ nữ chịu cảnh chồng chung, người ta hầu hết cam chịu, còn nữ sĩ thì không, sự phản kháng của Xuân Hương thể hiện qua bài thơ “Làm lẽ”: Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Năm thi mười họa chăng hay chớ?/ Một tháng đôi lần có cũng không/ Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm/ Cầm bằng làm mướn, mướn không công/ Thân này giá biết dường này nhỉ/ Thà trước thôi đành ở vậy xong. Có hiểu, có cảm thông cảnh chồng chung, mới cảm nhận được nỗi đau, khi nàng thơ phải thốt lên Chém cha cái kiếp lấy chồng chung, đó chính là tiếng nói nữ quyền của Hồ Xuân Hương cách nay đã ba thế kỉ.

Những vần thơ đó của vợ ba ông Tổng Cóc, chính là dấu ấn quan trọng nhất trong sự nghiệp thi ca của Hồ Xuân Hương, để đúng 250 năm ngày sinh và 200 năm ngày mất của nữ sĩ, ngày 23/11/2021, Tổ chức UNESCO đã vinh danh “Danh nhân văn hóa” cho nàng thơ.

Mối tình vợ ba Tổng Cóc và mảnh đất làng Gáp, chính là điểm tựa cho những bài thơ mang tính chiến đấu, bảo vệ nữ quyền của nữ sĩ vút lên, trong dòng thơ độc đáo của nữ sĩ, một “Danh nhân văn hóa” rạng danh cho phụ nữViệt Nam, cho thơ ca Việt Nam.

Nghiêm Thị Hằng

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám là nơi các Nho sinh, sĩ phu nước ta từ đầu thế kỉ thứ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX làm giàu học vấn. Đây chính là cơ quan quản lí giáo dục triều Nguyễn và là học phủ tối cao của triều đại phong kiến cuối cùng này…
Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Liệt sĩ nhà giáo có ở hầu hết các vùng, miền của Tổ quốc. Theo thống kê vào năm 2012, trong ngành Giáo dục có 2.219 liệt sĩ nhà giáo. Riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có hơn 4.000 nhà giáo trên khắp mọi miền đất nước đã lên đường vào miền Nam vừa dạy học, vừa cầm súng chiến đấu và đã có 621 nhà giáo đã anh dũng hi sinh.
Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng bậc nhất, là cội nguồn sức mạnh để đất nước vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua thiên tai dịch bệnh để vững bước tiến lên...
Đạo thầy trò

Đạo thầy trò

Xã hội nào nghề giáo cũng luôn được đánh giá là nghề cao quý nhất và người thầy giáo luôn có vị thế quan trọng. Câu ca dao có từ ngàn xưa: Mồng một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy là nét văn hóa về cách sống, cư xử mà ông cha ta muốn nhắc nhở con cháu.
Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ngày 5/6/1911, anh Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Để có được hoài bão vĩ đại này, vai trò của thầy Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), thầy Vương Thúc Qúy (1862-1907), thầy Lê Văn Miến (1874-1943) đối với Người rất quan trọng.

Tin khác

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”
Trong xã hội Việt Nam, người thầy có vị trí đặc biệt, nghề dạy học được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Sinh con và nuôi dưỡng con cái là công ơn trời bể của cha mẹ, nhưng dạy trẻ chóng lớn để trở thành người không chỉ biết chữ mà còn có phẩm cách tốt đẹp, gắn tình yêu thương trong gia đình với tình yêu nước là công lao to lớn của người thầy...

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” viết cho báo Sự thật (Pravda) của Liên Xô số ra ngày 1/11/1967, nhân kỉ niệm lần thứ 50 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, Nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của Nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại… là vô cùng sâu sắc”...

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước
Tháng Giêng năm 1924, từ Pa ris đến Mátxcơva, Bác Hồ vào viếng linh cữu Lênin, người bạn vĩ đại của Nhân dân các nước thuộc địa.

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ ngày thành lập đến nay, Quân đội ta ngày càng trưởng thành, đội ngũ ngày càng vững mạnh, là đội quân tiên phong luôn giương cao ngọn cờ “Bách chiến bách thắng”. Một trong những yếu tố tạo nên điều kì diệu đó chính là thực hiện tốt mối quan hệ cá nước, máu thịt đoàn kết quân-dân.

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Ngược dòng thời gian, 63 năm đã đi qua, kể từ ngày “Đường Hồ Chí Minh trên biển” chính thức đi vào hoạt động và lập nên nhiều kì tích của một con đường huyền thoại, khẳng định bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh Nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Trong đó, quê hương Bến Tre tự hào là nơi “khai sơn, phá thạch” với những con người đầu tiên rẽ sóng, mở ra con đường huyền thoại đó…

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời vào tháng 10/1947, với bút danh X.Y.Z. Đây là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền, là “cẩm nang” cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng
Cùng với Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3) dành để tôn vinh người phụ nữ, Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) được kỉ niệm để nêu bật vai trò quan trọng của một nửa thế giới, kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực để bảo đảm tương lai của các em, phát huy sức mạnh của các trẻ em gái trong quá trình xây dựng một thế giới bền vững…

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”.

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”
Đó là tiếng nói của Nhân dân ta dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai tiếng mộc mạc, ngắn gọn mà hàm chứa cả nhận thức sâu sắc qua thực tiễn và tình cảm sâu đậm của trái tim hàng chục triệu người Việt Nam…

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ
Trong suốt cuộc đời mưu sống và hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như làm phụ bếp trên tầu buôn, làm thợ sửa ảnh, sống bất hợp pháp ở một nước tư bản, hoạt động cách mạng bí mật trong nước cho đến khi làm chủ tịch nước ta, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống như khi còn khó khăn, thiếu thốn...

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời Các Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi” và lời V.I.Lênin: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công”. Kết quả phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
Công tác tham mưu của đội ngũ cán bộ các cấp đóng vai trò then chốt để tổ chức Đảng, người lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên, hiện nay có hiện tượng một số cán bộ đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm, triệt tiêu sức sáng tạo, nhiệt huyết và lòng can đảm trong công tác.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi thành lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi
Đã tròn 70 năm trôi qua, nhưng cứ đến ngày 10/10 hằng năm, ngày Giải phóng Thủ đô, cả gia đình tôi cảm nhận vô cùng hạnh phúc, vì Thủ đô giải phóng tôi được về Hà Nội và mới có được một niềm vinh dự lớn lao nhất trong cuộc đời ở đây.

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Trong tác phẩm “Dân vận” viết ngày 15/10/1949, đăng trên Báo Sự thật số 120, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.
Xem thêm
Phiên bản di động