Bà chúa thơ Nôm và nghi vấn về “ông Phủ Vĩnh Tường”

Trong cuộc đời bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, ngoài mối duyên với ông Tổng Cóc, còn mối duyên với “ông Phủ Vĩnh Tường”, mang theo nhiều tranh cãi. Vậy, “ông Phủ Vĩnh Tường” thực tế là ai? Một công trình nghiên cứu mới đây của nhà thơ, nhà báo, nhà nghiên cứu Nghiêm Thị Hằng đã làm rõ, được in trong cuốn “Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương”, do Nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành cuối năm 2021…

Trong cuốn “Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương”, nhà thơ, nhà báo, nhà nghiên cứu Nghiêm Thị Hằng cũng đưa ra giả thuyết về hai nhân vật, mà nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng đó là “ông Phủ Vĩnh Tường”, cụ thể đó là các ông: Phạm Viết Ngạn và Trần Phúc Hiển. Trước hết nói về ông Phạm Viết Ngạn, tư liệu nghiên cứu thể hiện như sau:

Ông Phạm Viết Ngạn sinh ngày 13/8 năm Nhâm Tuất (Gia Long nguyên niên – 1802), quê gốc ở Sơn Tây. Ông nội ông Phạm Viết Ngạn đến làng Trà Lũ, xã Xuân Trung, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định dạy học. Đến năm Bính Ngọ (1786) gia đình di cư hẳn về làng Trà Lũ, nên trở thành người làng Trà Lũ. Ông Phạm Viết Ngạn sinh năm 1802, đến năm 1824 đỗ Tú tài. Năm Thiệu Trị thứ hai (1842) ông thi đỗ Cử nhân tại trường thi Nam Định, khoa thi Nhâm Dần. Năm Mậu Thân (Tự Đức nguyên niên – 1848) ông được hậu bổ. Tháng 4 năm Kỷ Dậu (1849) ông được điều giữ chức Nhiếp biện ấn vụ huyện Thạch Thành (Thanh Hóa ngày nay), rồi nhậm chức Giáo thụ phủ Thiệu Hóa. Khoa thi hương năm Canh Tuất (1850), ông được sung sơ khảo trường Nghệ An. Khoa thi năm Giáp Dần (1854) ông được sung phúc khảo trường Nghệ An. Năm Mậu Ngọ (1858), ông được bổ làm tri huyện Gia Viễn (Ninh Bình). Đầu năm Nhâm Tuất (Tự Đức thứ 15 - 1862), ông được thăng chức Đồng tri phủ phân phủ Vĩnh Tường… Đến ngày 14/4 cùng năm, ông mất tại lị sở, thọ 61 tuổi.

Chân dung bà chúa thơ Nôm
Chân dung bà chúa thơ Nôm

Nhân vật thứ hai là ông Trần Phúc Hiển. Ông Trần Phúc Hiển làm Tri phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây. Năm 1813 ông chuyển đi nhậm chức Tham hiệp Yên Quảng (tỉnh Quảng Ninh). Năm 1822 vùng đất phủ Tam Đái được vua Minh Mạng cho đổi tên thành phủ Vĩnh Tường. Từ năm 1822 đến năm 1862, phủ Vĩnh Tường có 3 đời quan tri huyện, ông Phạm Viết Ngạn là tri phủ thứ 3 của phủ Vĩnh Tường. Năm 1816 ông Trần Phúc Hiển cưới nữ sĩ Hồ Xuân Hương làm lẽ, khi đó ông đang giữ chức Tham hiệp Yên Quảng.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương có tên “cúng cơm” là Hồ Phi Mai, sinh năm 1773, con cụ Hồ Phi Diễn, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An với người phụ nữ họ Hà, quê ở Bắc Ninh. Cụ Hồ Phi Diễn có vợ cả ở quê nhà, nhưng không có con. Khi ra Bắc dạy học, cụ kết hôn với người phụ nữ họ Hà và sinh ra duy nhất một người con gái đặt tên là Hồ Phi Mai, biểu tự là Xuân Hương. Như vậy, Hồ Xuân Hương chỉ là tên tự (tên chữ) của nữ sĩ. Công trình nghiên cứu của nhà thơ, nhà báo, nhà nghiên cứu Nghiêm Thị Hằng chỉ rõ, bà Hồ Phi Mai sinh ngày 13 tháng 7 âm lịch, tức ngày 30 tháng 8 năm 1773 dương lịch. Năm 1802 bà Hồ Phi Mai theo về làm lẽ ông Nguyễn Bình Kình (còn gọi là ông Tổng Kình), ở làng Gáp, nay thuộc xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Ông Tổng Kình khi đó đã có hai bà vợ ở quê, như vậy nữ sĩ về làm lẽ đồng nghĩa là người vợ thứ ba.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương làm lẽ ông Tổng Kình được hai năm, với bao khúc nhôi, cay đắng. Do đó, sau hai năm chung sống, bà chủ động chia tay với ông Tổng Kình (còn gọi là Tổng Cóc). Khi chia tay với ông Tổng Kình, nữ sĩ để lại bài thơ “Khóc Tổng Cóc”, với những lời lẽ, thái độ dứt khoát, nhưng vẫn phảng phất sự nuối tiếc: Tổng Cóc ơi, Tổng Cóc ơi!/ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi/ Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé/ Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi. Bà quay trở lại Thăng Long, hơn 7 năm theo bạn bè buôn bán và mở hiệu bán sách ở phố Nam, lấy tiền trang trải nuôi mẹ già. Năm 1811, bà được mời về dạy học ở làng Nghi Tàm, thay thầy Tử Minh vừa mất. Cũng năm đó nàng rời nhà từ thôn Tiêu Thị về ở nhà mới Cổ Nguyệt Đường ven Hồ Tây. Sau đó, bà lại kết hôn, làm lẽ “ông Phủ Vĩnh Tường”. Vậy, “ông Phủ Vĩnh Tường” là ai? Ông Phạm Viết Ngạn hay ông Trần Phúc Hiển?

Tư liệu ghi rất rõ, không thể tranh cãi, bà Hồ Phi Mai (nữ sĩ Hồ Xuân Hương), sinh năm 1773, ông Phạm Viết Ngạn, sinh năm 1802. Như vậy, ông Phạm Viết Ngạn kém “bà chúa thơ Nôm” 29 tuổi. Nữ sĩ chết năm 1822, khi vừa 49 tuổi, đến năm 1862, ông Phạm Viết Ngạn mới nhậm chức Tri phủ Vĩnh Tường, khi nữ sĩ đã chết 40 năm trước. Giả định bài thơ ghi “Hai bảy tháng trời đà mấy chốc”, chỉ thời gian nữ sĩ sống với “ông Phủ Vĩnh Tường” 3 năm, lùi đi 3 năm tức năm 1859 nữ sĩ về làm lẽ, khi đó ông Phạm Viết Ngạn mới 57 tuổi, còn cụ Hồ Xuân Hương (Hồ Phi Mai) đã 86 tuổi, không thể có chuyện ông Phạm Viết Ngạn lấy bà già 86 tuổi về làm vợ lẽ. Nếu để chỉ thời gian mãn tang, thì ông Phạm Viết Ngạn chết năm 1862, cộng thêm 3 năm nữa, khi đó cụ Hồ Xuân Hương đã 92 tuổi, trong khi nữ sĩ đã chết năm 1822, đủ thấy đó là sự phi lí. Vì vậy, ông Phạm Viết Ngạn không thể là “ông Phủ Vĩnh Tường” lấy nữ sĩ Hồ Xuân Hương (Hồ Phi Mai) làm lẽ được.

Như vậy, “ông Phủ Vĩnh Tường” trong bài thơ “Khóc ông Phủ Vĩnh Tường” của bà chúa thơ Nôm không phải ông Phạm Viết Ngạn, thì còn lại là ông Trần Phúc Hiển. Nếu nữ sĩ cưới người chồng thứ hai năm 1816, lúc đó chưa có Phủ Vĩnh Tường, mà khi đó ông Trần Phúc Hiển đang làm quan Tham hiệp Yên Quảng. Ông Trần Phúc Hiển được bổ làm Tri phủ Tam Đái năm 1810, năm 1813 được điều chuyển làm quan Tham hiệp Yên Quảng, năm 1819 bị xử tử hình, do bị quy kết tội nhận hối lộ. Tư liệu lưu giữ cũng cho thấy, bà chúa thơ Nôm từng chạy đôn, chạy đáo đi kêu oan cho chồng là ông Trần Phúc Hiển nhưng không được. Lịch sử cũng ghi lại, Hồ Xuân Hương viết đơn xin ân xá cho chồng, được vua Gia Long chấp thuận cho “tự xử”, nghĩa là được sống thêm 60 ngày, trong 60 ngày ấy giam ở đâu cũng được chuẩn theo ý của người làm đơn, đến ngày thứ 61 phải chết bằng cách tự xử, cách nào cũng được. Đến tháng Giêng năm 1822 phủ Tam Đái được vua Gia Long đổi tên thành phủ Vĩnh Tường, trùng thời gian năm nữ sĩ mãn tang chồng và sáng tác bài “Khóc ông Phủ Vĩnh Tường”, sau đúng 27 tháng (3 năm). Đến tháng 8 âm lịch năm đó, bà Hồ Xuân Hương (Hồ Phi Mai) từ trần ở tuổi 49.

Như vậy, người chồng thứ hai, “ông Phủ Vĩnh Tường” trong bài thơ “Khóc ông Phủ Vĩnh Tường” của bà Hồ Xuân Hương, không ai khác, chính là quan Tham hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Điều này thật rõ, với những dữ liệu về lịch sử, về các mốc thời gian, chứ không phải ông Phạm Viết Ngạn được bổ Tri phủ Vĩnh Tường khi nữ sĩ đã từ trần được 40 năm.

Hoàng Linh

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Trận đánh kì lạ, táo bạo ở cửa ngõ Sài Gòn

Trận đánh kì lạ, táo bạo ở cửa ngõ Sài Gòn

Chiều 28/4/1945, sau khi xe tăng và bộ binh của Trung đoàn 46 đánh chiếm xong căn cứ Sơn Trạch, các đơn vị tranh thủ củng cố đội hình, chuẩn bị hành quân chiến đấu tiếp theo. Còn các đơn vị phía sau đội hình Trung đoàn 46 thì tiến vào vùng đất mới giải phóng, trong đó đơn vị pháo binh chiến dịch triển khai trận địa, chuẩn bị dội bão lửa vào sân bay Tân Sơn Nhất.
Từ Chiến dịch Nam Tây Nguyên chuyển thành Chiến dịch Tây Nguyên

Từ Chiến dịch Nam Tây Nguyên chuyển thành Chiến dịch Tây Nguyên

Tháng 3/1974, Hội nghị Quân ủy Trung ương đã cụ thể hóa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Trung ương Đảng (khóa III) về “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”; và đề ra chủ trương kiên quyết phản công và tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược.
Đường Hồ Chí Minh trên biển, con đường của huyền thoại

Đường Hồ Chí Minh trên biển, con đường của huyền thoại

Con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển vẫn vang mãi dấu ấn của một thế hệ anh dũng, kiên cường, vượt qua gian khổ, mưu trí, dũng cảm để lập nên nhiều kì tích; để lại nhiều bài học sâu sắc và trở thành niềm tự hào, động lực to lớn, thôi thúc các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân Nhân dân tiếp bước trên con đường bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Việt Nam - Hồ Chí Minh biểu tượng của công lí và hòa bình

Việt Nam - Hồ Chí Minh biểu tượng của công lí và hòa bình

Chỉ ba tuần sau ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, thực dân Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn (23/9/1945), mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa.
Nguyễn Thị Định: Người “chị cả”, nữ tướng tài ba

Nguyễn Thị Định: Người “chị cả”, nữ tướng tài ba

Hình ảnh người “con gái Bến Tre” năm xưa đi trong đạn lửa, hiên ngang, bất khuất trong “Đội quân tóc dài” (đội quân đặc biệt, có thể nói là độc nhất vô nhị trên thế giới), xuất hiện trong cao trào Đồng khởi của tỉnh từ năm 1960, sau đó lan rộng cả miền Nam. “Đội quân tóc dài” đã làm nên huyền thoại, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước...

Tin khác

Chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc cho loài người

Chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc cho loài người
Trên hành trình tìm đường cứu nước (1911-1941), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiểu được rằng “cách mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi” và chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới đem lại hạnh phúc thực sự cho loài người.

Chặng đường 30 năm quan hệ Việt - Mỹ và hơn 200 năm giao lưu Nhân dân

Chặng đường 30 năm quan hệ Việt - Mỹ và hơn 200 năm giao lưu Nhân dân
Như chúng ta đã biết, ngày 28/1/1995, Hoa Kỳ thiết lập văn phòng liên lạc tại Hà Nội. Ngày 11/7/1995, Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Gặp người tham gia giải phóng Sài Gòn ở quê hương mới

Gặp người tham gia giải phóng Sài Gòn ở quê hương mới
Một ngày đầu tháng 4/2025, chúng tôi đến gặp ông Trần Thanh Tùng, cựu chiến binh (CCB) Sư đoàn 325, hiện sống ở khu phố 10, thị trấn Hai Riêng, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, người đã trực tiếp cùng đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn 50 năm về trước.

Dòng máu Tiên Rồng với khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Dòng máu Tiên Rồng với khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và toàn diện của đất nước đã khẳng định việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng đất nước ta phồn vinh, hạnh phúc.

Đường Trường Sơn trong sự nghiệp giải phóng miền Nam

Đường Trường Sơn trong sự nghiệp giải phóng miền Nam
Tháng 1/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ 15 mở rộng, xác định đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam. Thực hiện Nghị quyết 15, ngày 19/5/1959, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định xây dựng tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn nhằm chi viện sức người sức của của hậu phương lớn miền Bắc cho miền Nam thành đồng Tổ quốc.

Thực trạng tội phạm cướp tài sản trên địa bàn TP Hồ Chí Minh

Thực trạng tội phạm cướp tài sản trên địa bàn TP Hồ Chí Minh
Ở Việt Nam, địa bàn TP Hồ Chí Minh là nơi tập trung phản ánh rõ nét nhất hoạt động khởi tố, truy tố và xét xử tội phạm cướp tài sản. Đây cũng là địa phương có số vụ cũng như số lượng bị cáo chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước. Quá trình áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp tài sản ở TP Hồ Chí Minh cũng cho thấy một số thực trạng, bất cập trong công tác xây dựng pháp luật.

Cuộc “cách mạng” sắp xếp, tinh gọn bộ máy - ý đảng hợp lòng dân

Cuộc “cách mạng” sắp xếp, tinh gọn bộ máy - ý đảng hợp lòng dân
Kể từ tháng 11/2024, sau bài: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” có ý nghĩa như một lời hiệu triệu của Tổng Bí thư Tô Lâm, Đảng, Nhà nước ta khẩn trương bắt tay vào việc tinh gọn, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; với tinh thần tiên phong gương mẫu từ Trung ương xuống địa phương “vừa chạy vừa xếp hàng”.

Cảnh giác với những luận điệu xấu, độc về sáp nhập tỉnh

Cảnh giác với những luận điệu xấu, độc về sáp nhập tỉnh
Việc sáp nhập tỉnh là đáp ứng nhu cầu thực tiễn, và sự phát triển của quốc gia trở thành nội dung thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Thế nhưng, thời gian gần đây trên mạng xã hội lại xuất hiện những thông tin xuyên tạc về sáp nhập tỉnh.

Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên cộng sản theo lời dạy của Lênin

Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên cộng sản theo lời dạy của Lênin
Trong phiên họp đầu tiên của Đại hội III toàn Nga của Đoàn Thanh niên Cộng sản Nga (họp từ ngày 2 đến ngày 10/10/1920), Lênin đã đến dự và đọc bài viết: “Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên”…

Vững tin vào tuổi trẻ Việt Nam

Vững tin vào tuổi trẻ Việt Nam
Tuổi trẻ Việt Nam thật đáng tự hào về truyền thống 94 năm, nối bước cha anh đã không ngừng trưởng thành trong phong trào đấu tranh cách mạng, lập nên những kì tích anh hùng, góp phần xứng đáng vào cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...

Vạch trần luận điệu xuyên tạc về “Kỉ nguyên mới”

Vạch trần luận điệu xuyên tạc về “Kỉ nguyên mới”
Trong nhiều bài viết, phát biểu quan trọng gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập về kỉ nguyên mới, kỉ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phần tử phản động đã xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo rằng, Việt Nam muốn “vươn mình trong kỉ nguyên mới” thì cần phải thực hiện dân chủ đa nguyên, đa đảng...

Về quản lí trí thức trẻ thời kì đất nước vươn mình đổi mới

Về quản lí trí thức trẻ thời kì đất nước vươn mình đổi mới
Tiềm năng chủ yếu của mỗi quốc gia chính là đội ngũ trí thức. Đặc biệt là trí thức trẻ, đây là đội ngũ cán bộ khoa học năng động, sẵn sàng tiếp thu những tư tưởng mới.

Tô thắm truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam

Tô thắm truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam
Phụ nữ Việt Nam luôn giữ vai trò, địa vị quan trọng trong việc hình thành và phát triển nền văn hóa của dân tộc. Đó là mẹ Âu Cơ sản sinh ra nòi giống Lạc Hồng; nữ anh hùng Bà Triệu, Bà Trưng… chống giặc ngoại xâm khí phách, lẫy lừng...

Nhớ về trận đánh Buôn Ma Thuột, mở màn cho chiến dịch Tây Nguyên

Nhớ về trận đánh Buôn Ma Thuột, mở màn cho chiến dịch Tây Nguyên
Cách đây 50 năm đã diễn ra trân đánh Buôn Ma Thuột, mở màn cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Một trong những yếu tố làm nên chiến dịch lịch sử, đó là nghệ thuật giữ bí mật và nghi binh chiến dịch của ta.

Đảng ta thật vĩ đại

Đảng ta thật vĩ đại
Chúng ta tự hào về chặng đường chiến đấu vẻ vang của Đảng, càng thấm thía sâu sắc lời dạy của Bác Hồ kính yêu phải xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân!”.
Xem thêm
Phiên bản di động