“Đèn trời” đã soi sáng sau 24 năm đi tìm công lí
Pháp luật - Bạn đọc 04/11/2024 22:14
Nội dung vụ án:
Ngày 25/9/2024 tại TAND TP Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Lê Văn Ngọc, 70 tuổi, ở số 143/10 đường Phan Đăng Lưu, phường 2, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh. Bị đơn: ông Đoàn Hữu Hạnh, ông Đoàn Minh Đức, cùng: Số 537 Quốc lộ 13, khu phố 5, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh.
Phía nguyên đơn, ông Lê Văn Ngọc trình bày:
Ngày 11/11/1995, ông Ngọc nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Đời (ủy quyền cho con là ông Nguyễn Hữu Chắng) một nền nhà (đất thổ cư), ở Quốc lộ 13, lô 306, tờ bản đồ số 10, ấp 3, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh diện tích 318m2 (diện tích đo đạc giải quyết tranh chấp là 295m2), với giá 48 lượng vàng 9T6, quy ra tiền khi thanh toán. Ông Ngọc đã trả tiền đầy đủ cho ông Chắng, đồng thời còn trả thêm cho ông Chắng 3 lượng vàng là tiền san lấp. Ông Ngọc đã nhận đất và cho người bà con là Nguyễn Thị Tựu ở giữ đất cho đến nay. Ngày 30/9/1999, ông Ngọc kí thoả thuận bồi hoàn hoa màu trên đất với ông Nguyễn Văn Đời, diện tích đất bồi hoàn 318m2 đất trên.
Hợp đồng ngày 11/11/1995, chuyển nhượng một nền nhà (đất thổ cư), diện tích 318m2 (diện tích đo đạc giải quyết tranh chấp là 295m2), giữa ông Chắng và ông Ngọc. |
Năm 1999, ông Ngọc làm đơn xin phép sử dụng một phần 176m2 đất làm nhà ở. Ngày 10/1/2000, Phòng Quản lí đô thị quận Thủ Đức có Tờ trình số: 03/TT-ĐĐ gửi UBND TP Hồ Chí Minh về việc xin sử dụng đất, xin giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất cho ông Ngọc. Sau đó, cơ quan thuế quận Thủ Đức chấp nhận cho ông đóng thuế để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Sau khi được cơ quan chức năng chấp thuận, ông Ngọc cắm mốc ranh giới đất và rào lưới. Quá trình ông Ngọc cắm ranh đất, bà Châu Thị Dực (mẹ của ông Đoàn Minh Đức và ông Đoàn Hữu Hạnh) ngăn cản và gửi đơn khiếu nại với lí do phần đất của ông Ngọc là của gia đình bà đã mua của ông Nguyễn Văn Cảnh từ năm 1961.
Ông Ngọc khởi kiện yêu cầu Tòa án: Buộc ông Chắng, ông Hạnh và ông Đức phải có nghĩa vụ bàn giao diện tích 318m2 cho ông Ngọc và công nhận quyền sử dụng đất nói trên cho ông Ngọc.
Phía Bị đơn ông Đoàn Minh Đức và Đoàn Hữu Hạnh trình bày:
Các ông là những người đang trực tiếp quản lí, sử dụng nhà và đất tại thửa 467 Tờ bản đồ số 02, xã Hiệp Bình Phước (Tài liệu cũ), thuộc thửa 343 và 01 phần thửa 344 Tờ bản đồ số 02 - Hiệp Bình (Tài liệu Chỉ thị số 299/TTg) nay là thửa 443, 444, 445, 302, một phần thửa 305, 306, 307 Tờ bản đồ số 10 - Hiệp Bình Phước (Tài liệu năm 1992); không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Ngọc.
Ông Lê Văn Ngọc trên đất 295m2 nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995 |
Đại diện Viện KSND TP Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến và trình bày quan điểm:
Theo Công văn số: 154/CV-ĐĐBĐ ngày 15/4/2003 của Sở Địa chính - Nhà đất TP Hồ Chí Minh về việc xác định vị trí khu đất của ông Ngọc xin sử dụng xây nhà ở do bị đơn cung cấp không có tài liệu gốc để đối chứng nên không thể xem là chứng cứ hợp pháp theo quy định tại Khoản 1, Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đề nghị HĐXX: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngọc về việc công nhận quyền sử dụng đất phần diện tích đất 295m2 trên thuộc quyền sử dụng của ông Ngọc.
Bản án số: 781/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh, quyết định: Công nhận quyền sử dụng đất phần diện tích đất 295m2 nói trên, có tứ cận: Hướng Đông giáp đất người khác; hướng Đông Bắc giáp đất và hướng ra mặt đường Quốc lộ 13; hướng Tây và Nam giáp phần đất của ông Nguyễn Văn Chí và ông Đoàn Minh Đức, ông Đoàn Hữu Hạnh thuộc quyền sử dụng của ông Lê Văn Ngọc.
Những căn cứ của bản án sơ thẩm
Đơn của ông Lê Văn Ngọc viết: “Qua các tài liệu của các cơ quan Hành chính và trình bày trên có cơ sở khẳng định Bản án sơ thẩm số: 781/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh là khách quan và đúng với bản chất sự thật của các quan hệ dân sự trong giao dịch chuyển nhượng đất và quá trình quản lí sử dụng đất của tôi cũng như hộ gia đình bà Dực và các cá nhân liên quan khác. Bản án sơ thẩm này đã làm rõ ràng những nội dung của vụ án, thể hiện:
Nhà bên cạnh con đường trên phần đất 295m2 ông Ngọc nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995 |
Tôi là người sử dụng và quản lí hợp pháp phần đất có diện tích 318m2 (diện tích đo đạc giải quyết tranh chấp là 295m2), thuộc lô 306, Quốc lộ 13, tờ bản đồ 10, toạ lạc tại ấp 3, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức (nay là TP Thủ Đức), TP Hồ Chí Minh). Nguồn gốc phần đất này do tôi mua từ năm 1995 của ông Nguyễn Văn Đời (con ông là Nguyễn Hữu Chắng, đứng ra đại diện hỗ trợ cho ông Đời), theo Hợp đồng chuyển nhượng đất thổ cư ngày 11/11/1995 và hai bên đã thực hiện xong nội dung Hợp đồng chuyển nhượng, bên chuyển nhượng đã giao đất và nhận đủ tiền. Giao dịch mua bán này có ông Phạm Trung Quang là dân sống tại địa phương, có tham gia chứng kiến và đã đứng ra làm chứng trong vụ án này.
Công văn số 1192/UB-QLĐT ngày 7/10/2002 của UBND quận Thủ Đức, gửi TAND quận Thủ Đức |
Sau khi nhận đất, tôi có dựng tạm hàng rào và cất căn nhà cấp 4 và nhờ bà Nguyễn Thị Tựu (là người thân ở quê vào Sài Gòn mưu sinh) trông coi quản lí và sử dụng làm nơi ở, bà Tựu có thực hiện đăng kí lưu trú với chính quyền địa phương và quản lí sử dụng phần đất này cho đến nay. Trước đó, vào năm 1999, tôi có đơn xin sử dụng một phần diện tích 176m2/318m2 để cất nhà ở. Căn cứ đơn của tôi, ngày 20/12/1999 Phòng Quản lí đô thị UBND quận Thủ Đức đã có báo cáo thực địa về việc xin cất nhà ở của tôi; và ngày 10/1/2000 có Tờ trình số: 03/TT-ĐĐ gửi UBND TP Hồ Chí Minh về việc xem xét công nhận quyền sử dụng đất cho tôi, theo Công văn số: 2339/QĐ-UBĐT ngày 12/04/2000 của UBND TP Hồ Chí Minh và cơ quan thuế quận Thủ Đức đã ra thông báo nộp thuế để xét cấp GCNQSDĐ cho tôi đối với phần diện tích này.
Ông Lê Văn Ngọc cho biết: “Trong khi chờ xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế, tôi đã tiến hành thi công xây tường rào theo ranh đất, thì bà Châu Thị Dực (mẹ của ông Đoàn Minh Đức và ông Đoàn Hữu Hạnh là đồng bị đơn trong vụ án này và cũng là hộ sống liền kề ranh đất của tôi) ra ngăn cản và gửi đơn khiếu nại đến UBND phường Hiệp Bình Phước. Vì cho rằng gia đình bà đã mua phần đất này của ông Nguyễn Văn Cảnh (mua 1 phần đất có diện tích 793m2/1880m2), theo tài liệu 02 gồm các thửa 301, 444, 445 và một phần thửa 302, từ năm 1961, nhưng chưa sử dụng và cho rằng phần đất mà tôi xây dựng tường rào nằm trong phần đất của bà đã mua, nên yêu cầu UBND phường giải quyết, buộc tôi không được xây tường rào và giao trả đất cho bà.
Trên thực tế và theo Bản đồ hiện trạng ngày 12/2/1998, do Đoàn đo đạc Bản đồ Sở Địa chính lập thì phần đất 1.880m2 cùa ông Nguyễn Văn Cảnh không liên quan gì đến phần đất lô 306 mà tôi mua của ông Đời (có con là ông Chắng). Ngoài ra, còn có bản đồ hiện trạng do Sở Địa chính lập ngày 12/02/1998, phần đất 1.880m2 của ông Cảnh cho bà Dực 1 phần để làm nhà ở, cũng không liên quan gì đến lô 306 mà tôi mua của ông Nguyễn Văn Đời (do con là ông Nguyễn Hữu Chắng đại diện) từ năm 1995.
Ngày 25/9/2024 TAND TP Hồ Chí Minh đã mở phiên toà xét xử và tuyên Bản án số 781/2024/DS-ST |
Ngoài việc hộ gia đình bà Dực (bà Dực chết năm 2015 và có 2 con là Đoàn Minh Đức và Đoàn Hữu Hạnh tiếp tục đứng ra tranh chấp) còn tranh chấp với hộ ông Nguyễn Văn Chí (sinh năm 1937 – vẫn đang còn sống), vụ việc này đã được TAND TP Hồ Chí Minh giải quyết xong, trong vụ án khác có hiệu lực lực pháp luật theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 571/QĐSTDS ngày 26/8/2024.
Sự việc tranh chấp phần đất này giữa tôi và gia đình bà Châu Thị Dực kéo dài từ năm 2000 cho đến nay và được các cơ quan ban ngành, TAND quận Thủ Đức, TAND TP Hồ Chí Minh giải quyết bằng các văn bản, quyết định hành chính, bản án hành chính sơ thẩm, phúc thẩm từ năm 2002, 2003 và gần đây nhất là Bản án dân sự sơ thẩm số: 781/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh, cụ thể như sau:
1- Các Văn bản, quyết định giải quyết hành chính của phường, quận và cơ quan chuyên môn, gồm có:
- Tờ trình số: 1342/TT-QLĐT ngày 9/8/2001 của Phòng Quản lí đô thị quận Thủ Đức: Không công nhận đơn khiếu nại của bà Dực;
- Quyết định số: 159/QĐ-UB ngày 27/8/2001 của UBND quận Thủ Đức: Không công nhận đơn khiếu nại của bà Dực;
- Quyết định số: 248/QĐ-UB ngày 27/11/2001 của Chủ tịch UBND quận Thủ Đức: Bác đơn khiếu nại của bà Dực và công nhận Quyết định số: 159/QĐ-UB ngày 27/8/2001 của UBND quận Thủ Đức;
- Công văn số: 1192/UB-QLĐT ngày 7/10/2002 của UBND quận Thủ Đức, gửi TAND quận Thủ Đức: Xác định bà Châu Thị Dực căn cứ vào bằng khoán đất của ông Nguyễn Văn Cảnh đứng bộ thuộc lô 467, tờ bản đồ số 02 với diện tích 2960m, theo tài liệu 299/TTg của Chính Phủ lập thành thửa 343 diện tích 1880m2. Theo tài liệu 02 lập thành các thửa 301, 444, 445 và một phần thửa 302 và bản đồ hiện trạng ngày 12/12/1998 do Đoàn Đo đạc bản đồ, Sở địa chính – Nhà đất đo vẽ theo chỉ dẫn của ông Đoàn Minh Đức con của bà Dực, để tranh chấp với ông Ngọc là không có cơ sở;
- Công văn số: 2648/UB-QLĐT ngày 20/12/2002 của UBND quận Thủ Đức, gửi TAND quận Thủ Đức: Xác định thửa đất 306, do tôi nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Đời (cha của ông Chắng) theo Hợp đồng ngày 11/11/1995. Nguồn gốc phần đất này từ 1975 do ông Nguyễn Văn Đời (cha ông Chắng) đứng bộ thửa 468, tờ bản đồ 02 với diện tích 1.600m2 theo tài liệu 299/TTg, toạ lạc tại phường Hiệp Bình, quận Thủ Đức và phần đất này được tách thành các thửa 305, 306 và 307.
2- Bản án Hành chính sơ thẩm số: 01/HCST ngày 24/12/2002 của TAND quận Thủ Đức: Bác đơn khởi kiện hành chính của bà Dực về việc yêu cầu huỷ Quyết định số 159 và 248 của UBND quận Thủ Đức và Chủ tịch UBND quận Thủ Đức.
3- Bản án Hành chính phúc thẩm số: 30/HCPT, ngày 19/5/2003 của TAND TP. Hồ Chí Minh: Chấp nhận đơn kháng cáo của bà Dực, sửa bản án sơ thẩm về yêu cầu huỷ Quyết định số 159 và 248 của UBND quận Thủ Đức và Chủ tịch UBND quận Thủ Đức để giải quyết lại vụ tranh chấp.
4- Sau khi TAND TP Hồ Chí Minh xét xử và ban hành Bản án phúc thẩm số 30/HCPT, ngày 19/5/2003, thì xuyên suốt hơn 15 năm, vụ tranh chấp giữa tôi với bà Dực vẫn chưa giải quyết xong, bởi ngoài việc bà Dực tranh chấp với tôi, thì còn tranh chấp với ông Nguyễn Văn Chí. Đến năm 2018, tôi được UBND quận Thủ Đức hướng dẫn phải khởi kiện dân sự thì mới giải quyết dứt điểm được việc này, nên buộc lòng tôi phải chủ động khởi kiện dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất” với ông Đoàn Minh Đức và ông Đoàn Hữu Hạnh tại TAND quận Thủ Đức, sau đó phát hiện có yếu tố nước ngoài, nên TAND quận Thủ Đức chuyển Hồ sơ lên TAND TP Hồ Chí Minh và đựợc thụ lí số: 634/2018/TLST-DS ngày 10/8/2018.
5- Ngày 25/9/2024 TAND TP Hồ Chí Minh đã mở phiên toà xét xử và tuyên Bản án số 781/2024/DS-ST: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của tôi, công nhận phần đất có diện tích 295m2 đất thuộc lô 30, Quốc lộ 13, tờ bản đồ 10, toạ lạc tại ấp 3, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh đã nhận chuyển nhượng từ năm 1995 của ông Nguyễn Văn Đời và con là Nguyễn Hữu Chắng là hợp lệ và hợp pháp, ông Lê Văn Ngọc căn cứ bản án này được quyền liên hệ cơ quan chức năng có thẩm quyền để hoàn tất thủ tục đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định, ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, ông Đức và ông Hạnh đã kháng cáo bản án này. Hiện vụ việc đang chờ TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, theo đơn kháng cáo của ông Đoàn Minh Đức và ông Đoàn Hữu Hạnh.
6- Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự” số: 571/QĐ-ST-DS ngày 26/8/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh, thể hiện: Quyền sử dụng đất 1.858,6 m2 thuộc thửa 467, tờ bản đồ thứ 2 xã Hiệp Bình (cũ), quận Thủ Đức, tọa lạc tại 537 Quốc lộ 13, phường Hiệp Bình Phước, TP Hồ Chí Minh có tranh chấp giữa: ông Nguyễn Văn Chí, ông Phạm Trung Quang với ông Đoàn Minh Đức và ông Đoàn Hữu Hạnh (đất gốc do ông Nguyễn Văn Cảnh đứng bộ);
Và theo Bản đồ hiện trạng ngày 28/4/2023, do Trung tâm Đo đạc bản đồ, Sở Tài nguyên và Môi trường phát hành; Bản vẽ vị trí hiện trạng kí ngày 28/4/2023 phù hợp với vị trí hiện trạng năm 2020 do Trung tâm Đo đạc bản đồ, Sở Tài nguyên và Môi trường và Trung tâm Thông tin lưu trữ tư liệu, Sở Địa chính nhà đất đã trích sao địa bộ cho Phòng Quản lí nhà đất quận Thủ Đức bằng 2 Công văn: 194/TS-TTLT và 195/TS-TTLT kí ngày 18/1/2001, đã chứng minh lô 467 nói trên và lô 468 (có 295m2 đất tôi nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995) là hai lô khác nhau, liền ranh. Điều này cũng thể hiện qua việc đóng ranh đất lô 467 ngày 25/10/2024 của ông Phạm Trung Quang, ông Đoàn Minh Đức và Đoàn Hữu Hạnh là phù hợp (tôi là Lê Văn Ngọc chứng kiến đóng ranh) hai lô 467, 468 chỉ là liền ranh.
Ông Lê Văn Ngọc khẳng định: “Đèn trời đã soi sáng sau 24 năm tôi đi tìm công lí, thể hiện bằng việc: Hội đồng xét xử phiên tòa sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của tôi - Lê Văn Ngọc. Nay, thông qua cơ quan báo chí, tôi kính mong Hội đồng xét xử phiên tòa phúc thẩm tới đây sẽ xem xét toàn diện, khách quan vụ việc để giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 781/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh, vì vụ việc đã kéo dài xuyên suốt 24 năm qua, nay tôi đã 70 tuổi, trong đó có hơn 35 năm công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học, với vai trò Tiến sĩ, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, cho nhóm Nghiên cứu phục vụ cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Nay, sức khoẻ của tôi trong tình trạng “sức cùng lực kiệt”, bởi căn bệnh ung thư xương giai đoạn 4”.