Có nhiều căn cứ để giám đốc thẩm
Đơn thư bạn đọc 21/03/2022 08:24
Nhà, đất gia đình bà Cao Thị Mước quản lí, sử dụng từ năm 1960 đến nay |
Văn bản số 239/TCD-XLĐ ngày 19/10/2020 của UBND tỉnh Bến Tre trả lời bà Cao Thị Trước (chị gái bà Cao Thị Mước) |
Tóm tắt nội dung vụ án
Theo Bản án số: 365/2020/DS-PT ngày 29/12/2020 về việc tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất” của TAND tỉnh Bến Tre, Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc Huy, sinh năm 1974, ngụ ấp Giồng Xoài, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bị đơn: Bà Cao Thị Mước, sinh năm 1960, ngụ ấp Giồng Xoài, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn là ông Võ Trần Duy trình bày (trích):
Đất tranh chấp thuộc một phần thửa 67, tờ bản đồ số 09 (theo bản đồ năm 2014 là thửa 356, tờ bản đồ số 13), loại đất ONT + CLN, diện tích qua đo đạc thực tế là 291,lm2, tọa lạc tại ấp Giồng Xoài, xã An Đức (Ba Tri - Bến Tre) có nguồn gốc của ông Lê Ngọc Toản (Phủ Dũng) đổi với cô ruột là bà Lê Thị Quới (mẹ bà Trần Thị Diêm), việc này có lập văn bản là “Tờ đổi đứt đất ruộng và thổ cư trọn sở” ngày 19/7/1938.
Năm 1960, bà Diêm cho gia đình cụ Trần Thị No (mẹ của bà Trước và bà Mước) cất nhà ở tạm trên đất khoảng 200m2.
Năm 1993, đo đạc lập bản đồ địa chính xã An Đức, huyện Ba Tri, bà Diêm (ngoại ông Huy) kê khai, đăng ký trên hồ sơ địa chính thửa 67, tờ bản đồ số 09, diện tích l.001m2, loại đất ONT + CLN.
Năm 1998, bà Diêm làm giấy ủy quyền chuyển giao tài sản nhà ở và đất cho ông Huy (trong đó có thửa 67, tờ 09 do cụ No và bà Mước đang sử dụng một phần).
Năm 1998, bà Diêm làm giấy ủy quyền chuyển giao tài sản nhà ở và đất cho ông Nguyễn Quốc Huy |
Ngày 20/8/2003, ông Huy làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 67, tờ bản đồ số 09 và các thửa đất khác.
Ngày 28/10/2003, ông Huy được UBND huyện Ba Tri cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu thửa 67, tờ 09.
Giấy chứng nhận QSDĐ lần đầu thửa 67, tờ 09 ngày 28/10/2003 của ông Nguyễn Quốc Huy. |
Trước đó, tháng 10/2007, bão số 9 đi qua làm nhà của cụ No và bà Mước bị sập, không có chỗ ở nên cụ No và bà Mước năn nỉ xin bà Diêm và ông Huy cho được sửa chữa nhà và tiếp tục ở trên đất, do lúc này bà Diêm đã tặng cho quyền sử dụng đất thửa 67, tờ 09 cho ông Huy nên sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Huy ký hợp đồng cho bên cụ No và bà Mước thuê đất, hợp đồng thuê đất được lập ngày 30/9/2009 có sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương là ông Phạm Văn Tần, nguyên trưởng ấp 9 (ấp Giồng Xoài) đã chết, ông Nguyễn Văn Lùng, nông dân ấp 9, ông Lê Văn Hốt, Tổ trưởng tổ nhân dân tự quản số 2, ấp 9, bà Nguyễn Thị Kim Tuyết, mặt trận ấp 9 và có xác nhận của UBND xã An Đức ngày 1/10/2009. Theo hợp đồng thể hiện: Đất cho thuê 200m2 (ngang 10, dài 20) thuộc một phần thửa 67, tờ 09, tọa lạc tại xã An Đức, thời hạn thuê 10 năm (từ ngày 30/9/2009 đến hết ngày 30/9/2019), không tính tiền cho thuê đất; cụ No và bà Mước không được xây dựng nhà ở kiên cố, chỉ cất nhà tiền chế, cột bêtông, vách lá, mái lợp tole (phù hợp với hiện trạng nhà của bà Mước đang ở tại biên bản định giá tài sản ngày 21/2/2020).
Khi hết thời hạn cho thuê đất, ông Huy nhiều lần yêu cầu bà Mước trả đất nhưng bà Mước không trả, hai bên phát sinh tranh chấp.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Cao Thị Mước trình bày (trích):
Đất tranh chấp có diện tích đo đạc thực tế là 291,1m2, thuộc một phần thửa đất số 67, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp Giồng Xoài, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có nguồn gốc của ông Phù Dũng. Bà nghe cụ No (mẹ bà) nói là gia đình bà đã ở trên đất này từ năm 1960 đến nay.
Thời chiến tranh, ông Phủ Dũng về thành phố Bến Tre ở, biết bà Diêm là cháu của ông Phủ Dũng nên hỏi bà Diêm xin ở nhờ trên đất để trốn đạn bom thì bà Diêm nói đất này không phải của bà, bà không có quyền quyết định, kêu đi hỏi ông ba Tỵ, vì ông ba Tỵ được ông Phủ Dũng mướn giữ đất. Gia đình bà đến gặp ông ba Tỵ hỏi xin cho cất nhà ở nhờ trên đất thì ông ba Tỵ chỉ vị trí cho cất nhà ở (hiện là vị trí nhà mà bà đang ở).
Năm 1993, mẹ của bà có đi kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất thì chính quyền địa phương không cho kê khai, đăng ký nói là đất của Nhà nước. Do đó, gia đình bà cứ đóng thuế rồi ở. Tuy nhiên, bà không có tài liệu, chứng cứ gì thể hiện việc mẹ bà đã đi kê khai, đăng ký đất này vào năm 1993. Cách đây 6 năm đoàn đo đạc Vlap đến đo đạc, khi bà hướng dẫn do đạc thi ông Huy ngăn cản, không cho đo.
Mặc dù lúc ký kết hợp đồng thuê đất gia đình bà có giữ đầy đủ giấy tờ đóng thuế nhưng không dám nói là đất của gia đình bà, cũng không đem giấy tờ đóng thuế ra vì sợ bị mất. Lúc đó bà không biết ông Huy đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mà cũng không ai nói cho bà biết về việc ông Huy đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2019 khi xảy ra tranh chấp bà mới biết.
Trên đất có tài sản là nhà của mẹ bà cất năm 2009, chuồng trại, cây trồng và một số đồ dùng sinh hoạt của bà. Từ năm 2009 đến nay không có sữa chữa nhà lần nào. Ngoài ra, trên đất còn có những đoạn hàng rào của ông Huy xây dựng năm 2009, thời điểm ông Huy xây hàng rào ở phía trước và hai bên hông nhà của bà thì bà có nói mẹ bà ngăn cản không cho ông Huy xây hàng rào, nhưng mẹ bà nói không có ngăn cản.
Cha bà là cụ Cao Văn Thôn (chết năm 1961 là liệt sĩ) và mẹ bà là cụ Trần Thị No (chết năm 2012). Căn nhà trên phần đất tranh chấp trước đây mẹ bà và bà ở, nhưng sau khi mẹ bà chết đến nay thì chỉ có một mình bà ở, nhà này là nơi bà thờ cúng mẹ và cha bà là liệt sĩ, ngoài ra không còn ai khác ở chung với bà trong nhà này.
Liệt sĩ Cao Văn Thôn hi sinh năm 1961 |
Đất này gia đình bà Mước đã ở liên tục ổn định từ trước chiến tranh đến nay, có đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước nên bà không đồng ý di dời tài sản để trả đất lại cho ông Huy.
Những hình ảnh trên, thể hiện gia đình bà Mước có căn nhà duy nhất đã ở liên tục ổn định từ trước chiến tranh đến nay và có đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước |
Bản án dân sự sơ thẩm số 51/2020/DS-ST ngày 25/8/2020 của TAND huyện Ba Tri, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huy. Buộc bà Mước phải di dời toàn bộ tài sản có trên phần đất tranh chấp diện tích 291,lm2 thuộc một phần thửa 67, tờ bản đồ số 09 (theo bản đồ năm 2014 là thửa 356, tờ bản đồ số 13), tọa lạc tại xã An Đức (Ba Tri – Bến Tre) để trả lại đất trống cho ông Huy.
Bản án số 365/2020/DS-PT ngày 29/12/2020 của TAND tỉnh Bến Tre, xử: Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 51/2020/DS-ST ngày 25/8/2020 của TAND huyện Ba Tri.
Bản án dân sự sơ thẩm số 51/2020/DS-ST ngày 25/8/2020 của TAND huyện Ba Tri |
Trang đầu và trang cuối Bản án số 365/2020/DS-PT ngày 29/12/2020 của TAND tỉnh Bến Tre. |
Xuất hiện nhiều tình tiết mới
Từ văn bản Sao lục số 191 SL – CNBTr ngày 24/2/2021 của Chi nhánh Văn phòng Đăng kí đất đai (ĐKĐĐ) huyện Ba Tri, thể hiện trong 2 bản án sơ phẩm và phúc thẩm có nhiều nội dung của vụ án đã không được xem xét, giải quyết.
Sao lục số 191 SL – CNBTr ngày 24/2/2021 của Chi nhánh văn phòng ĐKĐĐ huyện Ba Tri. |
Một, nguyên đơn-ông Nguyễn Quốc Huy không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất, đơn đăng ký kê khai quyền sử dụng ruộng đất ngày 29/8/2003; chữ ký người kê khai không phải là chữ ký của ông Nguyễn Quốc Huy. Có dấu hiệu giả mạo đơn đăng ký người sử dụng ruộng đất, bản danh sách các thửa đất nông nghiệp đề nghị cấp cùng 1 giấy chứng nhận nhưng chữ ký của ông Nguyễn Quốc Huy trong đơn và trong danh sách các thửa đất nông nghiệp đề nghị cấp cùng 1 giấy chứng nhận hoàn toàn không đồng nhất.
Hai, Thông báo số 15/TB – UB, của UBND xã An Đức ký ngày 29/9/2003 về việc công khai hồ sơ đăng ký đất. Nội dung: “Trân trọng thông báo kể từ ngày 20 tháng 9 năm 2003 hồ sơ đăng ký đất đã được hội đồng đăng ký đất xã An Đức xét duyệt sẽ được công khai tại ấp 5,8,9..”. Như vậy, từ ngày 20/9/2003 đến ngày 29/9/2003, UBND xã An Đức mới ký Thông báo, qua thông báo này cho thấy có dấu hiệu UBND xã An Đức làm giả giấy tờ trước 10 ngày.
Thông báo số 15/TB – UB, của UBND xã An Đức ký ngày 29/9/2003 về việc công khai hồ sơ đăng ký đất |
Ba, Biên bản số 15/TB – UB, của UBND xã An Đức về việc kết thúc công khai hồ sơ đăng ký đất. UBND xã An Đức ký không ghi ngày tháng. Nội dung: “Ngày 12 tháng 9 năm 2023 UBND xã (thị Trấn) An Đức đã kết thúc hồ sơ đăng ký đất trong thời hạn 15 ngày (kể từ ngày 12 tháng 9 năm 2003) theo đúng quy định của Tổng cục Địa chính”. Theo biên bản này, UBND xã An Đức ký thông báo công khai hồ sơ đăng ký đất ngày 29/9/2003, trong khi đó ký kết thúc công khai hồ sơ đất 12/9/2003. UBND xã An Đức đã ký kết thúc công khai hồ sơ đất trước thông báo công khai hồ sơ đất 17 ngày.
Biên bản số 15/TB – UB, của UBND xã An Đức về việc kết thúc công khai hồ sơ đăng ký đất |
Bốn, Biên bản số 18/BB-UB ngày 29/9/2003, của UBND xã An Đức xét duyệt chi tiết của Hội đồng đăng ký đất, thành viên Hội đồng đăng ký đất có có 12 người nhưng không có tên trong biên bản, biên bản xét duyệt chi tiết của Hội đồng đăng ký đất ký đất cùng ngày với thông báo công khai hồ sơ đăng ký đất 29/9/2003. Qua biên bản xét duyệt chi tiết của Hội đồng đăng ký đất của xã An Đức đã chứng minh UBND xã An Đức không công khai hồ sơ đất theo quy định của Tổng cục Địa chính (15 ngày). Tỷ lệ biểu quyết có dấu hiệu không khách quan, không có sự tham gia của 12 người như ghi trong biên bản, trong biên bản không ghi tên thành viên tham gia.
Biên bản số 18/BB-UB ngày 29/9/2003, của UBND xã An Đức xét duyệt chi tiết của Hội đồng đăng ký đất |
Năm, tại giấy chứng nhận nguồn gốc đất, UBND xã An Đức ký ngày 29/9/2003, ký cùng ngày với Thông báo công khai hồ sơ đăng ký đất (ngày 29/9/2003), thể hiện: Không có chữ kí của Trưởng ấp và của Đội Thuế xã; và UBND xã An Đức không công khai đủ 15 ngày, mà đã chứng nhận nguồn gốc đất cho ông Nguyễn Quốc Huy.
Giấy chứng nhận nguồn gốc đất, UBND xã An Đức ký ngày 29/9/2003, ký cùng ngày với Thông báo số 15 công khai hồ sơ đăng ký đất (ngày 29/9/2003). |
Sáu, Tờ trình xin phê duyệt giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 73/TT-UB, của UBND xã An Đức ký ngày 30/9/2003, kết thúc công khai hồ sơ đăng ký đất ngày 29/9/2003. Qua tờ trình này minh chứng cho thấy chỉ 1 ngày (chưa đủ 15 ngày theo quy định của Tổng Cục Địa Chính) UBND xã An Đức đã có trờ trình xin phê duyệt đất cho ông Nguyễn Quốc Huy.
Tờ trình xin phê duyệt giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 73/TT-UB, của UBND xã An Đức ký ngày 30/9/2003 |
Bảy, ngày 29/7/1998, bà Trần Thị Diêm làm giấy ủy quyền cho cháu ngoại Nguyễn Quốc Huy toàn quyền sử dụng tài sản trong đó có 3 công đất ruộng chưa được Nhà nước có thẩm quyền cấp quyền sử dụng đất, giấy ủy quyền không có thời hạn, sau 5 năm ngày 29/8/2003 ông Huy có đơn đăng ký chuyển quyền sử dụng ruộng đất. Giấy ủy quyền không ghi thời hạn thì chỉ có hiệu lực đúng 1 năm, sau đó thì không có giá trị làm căn cứ để chuyển quyền cho ông Huy. Hơn nữa, đất được ủy quyền sử dụng cho nguyên đơn – ông Huy là đất chưa có chủ quyền sử dụng hợp pháp, nên không thể coi giấy ủy quyền này được thay thế giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Trần Thị Diêm. Do vậy, theo quy định của Luật Đất đai, thì không thể coi giấy ủy quyền này là căn cứ để coi là việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Diêm cho ông Huy. Điều này, cho thấy việc lấy lí do bà Trần Thị Diêm làm giấy ủy quyền cho cháu ngoại Nguyễn Quốc Huy để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Huy là hoàn toàn không có cơ sở!
Tám, tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn là ông Võ Trần Duy trình bày: “… bà Diêm đã tặng cho QSD đất thửa 67, tờ 09 cho ông Huy” (xem trang 3 bản án phúc thẩm). Tuy nhiên, thực tế không có việc bà Diêm tặng cho quyền sử dụng đất thửa 67, tờ 09 cho ông Huy; và nếu có hợp đồng tặng cho này, thì là hợp đồng trái pháp luật, bởi bà Diêm chưa được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thế nhưng không hiểu tại sao lời khai thể hiện sự khai gian dối này đã không được các cấp tòa án xem xét, giải quyết (?!).
Trang 3 bản án phúc thẩm |
“Buộc” phải tố cáo
Đây là khẳng định của bà Cao Thị Trước (chị ruột bà Mước), sinh năm 1956, nơi đăng ký thường trú số: 271/AQ1 xã An Hòa Tây, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Trong đơn tố cáo, bà Trước phản ánh:
“Ngày 2/7/2021, tôi làm đơn tố cáo “UBND huyện Ba Tri về việc cấp quyền sử dụng đất không đúng theo quy định của Tổng cục Địa chính”, gửi các cơ quan Nhà nước và nhận được các văn bản sau:
- Công văn số 263/TA – TCCB ngày 6/7/2021 của TAND tỉnh Bến Tre, về việc chuyển đơn:
Qua xem xét nội dung đơn, căn cứ Điều 13 Luật Tố cáo năm 2018 quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi, vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước. Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre chuyển đơn tố cáo của bà Cao Thị Trước đến UBND tỉnh Bến Tre giải quyết theo thẩm quyền”.
Công văn số 263/TA – TCCB ngày 6/7/2021 của TAND tỉnh Bến Tre, |
Phiếu chuyển số 261/PC-C01 (P1) ngày 15/7/2021 của Bộ Công an – Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra. Tóm tắt nội dung:
"Bà Cao Thị Trước ...Tố cáo UBND huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre cấp quyền sử dụng một phần thửa đất số 67 tờ bản đồ số 9 tại ấp Giồng Xoài, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre là đất của gia đình bà đang sử dụng cho ông Nguyễn Quốc Huy không đúng theo quy định của pháp luật.Đề nghị cơ quan chức năng làm rõ.
Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an chuyển đơn đến UBND tỉnh Bến Tre để chỉ đạo giải quyết theo quy định của pháp luật”.
Phiếu chuyển số 261/PC-C01 (P1) ngày 15/7/2021 của Bộ Công an, |
Thông báo số 1316/TB-C02-P1 ngày 8/7/2021 của Bộ Công an – Cục cảnh sát hình sự về việc chuyển đơn:
“Sau khi xem xét nội dung đơn và căn cứ Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT – VKSNDTC – TANDTC – BCA – BQP – BTC – BNN&PTNT ngày 05/9/2018 của VKSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc phối hợp thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo. Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Công an chuyển đơn đến đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre để xử lý, giải quyết theo quy định của pháp luật”.
Thông báo số 1316/TB-C02-P1 ngày 8/7/2021 của Bộ Công an |
Bà Trước cho biết thêm: "Ngày 12/7/2021, tôi nhận Văn bản số 3914/UBND – TCD của UBND tỉnh Bến Tre về việc trả lời đơn của bà Cao Thị Trước:
“Sau khi kiểm tra, xem xét nội dung đơn và hồ sơ, nhận thấy đây là vụ việc tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, đã được TAND huyện Ba Tri xét xử tại Bản án số 51/2020/DS-ST ngày 28/5/2020 và TAND tỉnh Bến Tre xét xử Bản án số 365/2020/DS – PT ngày 29/12/2020. Bản án đã có hiệu lực thi hành, hiện nay đã tổ chức thi hành án.
Nay bà Cao Thị Trước gửi đơn với nội dung trên, UBND tỉnh nhận thấy đơn của bà không có cơ sở xem xét, giải quyết. UBND tỉnh có ý kiến trả lời để bà Cao Thị Trước được rõ”.
Văn bản số 3914/UBND – TCD của UBND tỉnh Bến Tre về việc trả lời đơn của bà Cao Thị Trước |
Ngày 2/10/2021, tôi làm đơn lần 2 yêu cầu UBND tỉnh Bến Tre yêu cầu xem xét lại việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Ngày 19/10/2020 UBND tỉnh Bến Tre trả lời: “Không có cơ sở trả giải quyết vì không có tình tiết mới” ..
Nguyện vọng của người cao tuổi: Cần sự công bằng!
Trao đổi với phóng viên, bà Trước bức xúc: “Qua 60 năm gia đình sử dụng đất. Nếu UBND tỉnh Bến Tre khẳng định không phải là đất gia đình tôi, cấp cho ông Huy là đúng vậy thì tại sao gia đình tôi đóng thuế cho Nhà nước, và được Nhà nước đã chấp thuận? Gia đình làm tròn nghĩa vụ thuế cho Nhà nước. Đất của ông Huy tại sao gia đình tôi phải đóng thuế? Gia đình tôi đã mất đi người cha (liệt sỹ) vì sự nghiệp của giải phóng dân tộc, đem lại ấm no cho dân tộc, gia đình sinh sống hơn 60 năm trên đất này, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước bằng chính sức lao động của mình, bằng mồ hôi nước mắt, giải nắng, dầm mưa. Nhưng bằng những thủ đoạn gian manh, xảo trá của một số cán bộ thể hiện làm sai chủ trương của Nhà nước, để bây giờ gia đình tôi phải gánh chịu hậu quả. Cái bàn thờ cho người hy sinh vì Tổ quốc đến giờ này còn chưa được tử tế thì làm sao có đủ khả năng để xây nhà, dọn đi nơi khác để ở.
Bàn thờ cho người hy sinh vì Tổ quốc của gia đình bà Mước đến giờ này còn chưa được tử tế |
Bằng văn bản trả lời của UBND tỉnh Bến Tre, thể hiện sự thiếu trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, giải quyết sự việc không đạt tình, đạt lý, tôi tiếp tục tố cáo UBND tỉnh Bến Tre, tố cáo ông Nguyễn Minh Cảnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, ông Võ Thanh Tùng, Phó trưởng Ban tiếp công dân, đẩy gia đình chúng tôi vào cảnh khốn khổ, thể hiện cụ thể như sau:
1. Không giải quyết tố cáo theo thẩm quyền tại Điều 13 Luật Tố cáo năm 2018 quy định thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi, vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính Nhà nước. Bởi tôi tố cáo “UBND huyện Ba Tri về việc cấp quyền sử dụng đất không đúng theo quy định của Tổng cục Địa chính”.
2. Không kiểm tra, xem xét đầy đủ nội dung đơn và hồ sơ vụ việc, cụ thể là: không điều tra xác minh làm rõ hai chi tiết cần chứng minh.
2.1 Nội dung bản án ghi: “Ngày 20/8/2003, ông Huy làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 67, tờ bản đồ số 09 và các thửa đất khác”. “Ngày 28/10/2008, ông Huy được UBND huyện Ba Tri cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với thửa 67, tờ bản đồ số 09”.
Trong khi, theo hồ sơ lưu trữ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất huyện Ba Tri: “Ngày 29/8/2003, ông Huy làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với thửa 67, tờ bản đồ số 09 và các thửa đất khác”, “Ngày 28/10/2003, ông Huy được UBND huyện Ba Tri cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với thửa 67, tờ bản đồ số 09”.
2.2 Không xem xét hồ sơ cấp quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Quốc Huy, thể hiện không đúng theo quy định của Tổng cục Địa chính.
3. Không xử lý, giải quyết theo thẩm quyền các văn bản đã tôi đã nhận:
Công văn số 263/TA – TCCB ngày 6/7/2021 của TAND tỉnh Bến Tre, về việc chuyển đơn; Phiếu chuyển số 261/PC-C01 (P1) ngày 15/7/2021 của Bộ công an – Văn phòng Cơ quan cảnh sát điều tra; Thông báo số 1316/TB-C02-P1 ngày 8/7/2021 của Bộ Công an – Cục Cảnh sát hình sự về việc chuyển đơn.
Vì quá nghèo khổ, bất bình trước những hành vi thể hiện thiếu trách nhiệm của một số cán bộ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin yêu, tín nhiệm; vì một số người này đã có những việc làm thể hiện không thấu hiểu nỗi khốn khổ của người dân (trong đó có người cao tuổi như tôi), nên nay tôi buộc phải làm đơn tố cáo, tôi tha thiết kính đề nghị Quý cơ quan, Quý các ông, bà xem xét, điều tra sự vụ, sự việc thấu tình, đạt lý để trả lại công bằng cho gia đình tôi”.
Bằng nội dung bài viết này, Tạp chí Người cao tuổi trân trọng kính chuyển nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người cao tuổi là bà Cao Thị Trước và Cáo Thị Mước đến cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết để được giám đốc thẩm vụ án trên đây.