Từ bài viết của Nguyễn Khuyến suy nghĩ về “giặc nội xâm” xưa và nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là tài sản tinh thần to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ hành vi, bản chất, nguyên nhân của tham nhũng, tiêu cực; những tác hại nguy hiểm của thứ “giặc nội xâm”, phá hoại sự nghiệp cách nạng của Đảng và Nhân dân Việt Nam.

Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực trạng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam thời gian qua, trong bài này, chúng tôi xin giới thiệu một “bài viết” của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cách đây hơn 150 năm.

Trong toàn bộ bài Văn sách thi Đình, khoa Tân Mùi năm 1871 ở trường thi Huế, Nguyễn Khuyến đã có một cách nhìn mới, thực tế và nghiêm khắc về kỉ cương, phép nước. Ông đã khái quát tệ nạn tham nhũng và cách dùng người dưới triều Tự Đức. Bài văn sách của một vị tri thức luôn đau đáu trước nội tình đất nước, được viết năm 1871 nhưng vẫn mang tính thời sự đến tận hôm nay. Theo ghi chép, vua Tự Đức ra đề thi Đình như sau:

“Trẫm thường đọc sách Luận Ngữ đến chỗ Từ Công hỏi về chính sự, Khổng Tử nói rằng: “Đủ lương thực, đủ binh lính, dân tin theo vậy”. Nhân nghĩ công việc hiện nay, không việc gì quan trọng hơn điều đó, mà muốn thực hiện được điều đó thì sự lựa chọn người tốt lại là quan trọng hơn cả. Trẫm từng đêm ngày lo nghĩ mà vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Đông đảo kẻ sĩ các ngươi lúc mới xuất thân ắt hẳn có sở học Kinh bang tế thế. Vậy thì những loại việc thiết thực như vậy, suy nghĩ cho từ cổ đến kim, nghĩ thế nào, làm thế nào để có công hiệu hãy nói hết với trẫm. Các ngươi chớ lặp lại người khác, chớ bàn phù phiếm, trẫm cũng bất tất phải hỏi nhiều để các ngươi có thì giờ rộng rãi, nói được hết ý nghĩa, xứng với ý muốn của trẫm”.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Bài thi của Nguyễn Khuyến đã vạch trần tình trạng tham nhũng, lãng phí đang phát triển từ chốn thôn quê đến tận châu, huyện, phủ và cả triều đình. Ông viết: “Chốn đồng điền nhiều con em chơi bời, lười nhác. Nơi tổng, xã có cường hào sâu mọt đục khoét. Nhà giàu đặt nợ lãi để kiếm cách bao chiếm. Con buôn nắm giữ lấy giá cả để kiếm lợi to. Đó là nguồn gốc của sự thiếu thốn vậy!”. Thêm vào đó, trong thì Bộ, Viện, Tự… (cơ quan của triều đình) ngoài thì tỉnh, phủ… “Đem số thuế khóa rất hẹp hòi mà cung đốn cho bọn nhân viên rất phiền nhũng, thì của cải làm sao mà không hao tán. Nhiều lần triều đình đã phải gộp người lại hoặc bớt đi (giống như tinh giản biên chế ngày nay), nhưng bọn quan lại lạm ngạch, bọn cường hào quen thói “tập hợp nhau để cố nài xin, việc ấy rốt cục phải nửa chừng đình chỉ”…

Sau khi nêu lên thực trạng nói trên của xã hội đương thời, ông đề xuất với nhà vua như sau: “Thần xin rằng: Từ nay những việc như tập tục xa xỉ, ăn mặc xa hoa, con em lười nhác, hào cường bóc lột… nhất thiết đều cấm hết, mà cấm một cách dứt khoát”. Ông cũng vạch trần nạn tham nhũng trong quân đội của triều đình với các vấn nạn như: “Nhà cửa, vật dụng của viên quản xuất cũng đều do người lính cung cấp; than củi, đèn dầu, đòi hỏi không bao giờ chán. Có người được chọn ra chờ đợi rồi thả cho họ về để lấy tiền. Có người được đi phép nhưng vẫn còn tạm lưu lại để đòi lễ vật! Đến như tới phiên sai phái, có thể lấy tiền mà thay, đến kì thao diễn có thể lấy tiền mà thuê. Ngày thường đã lấy đút lót làm sa ngã ý chí của họ rồi thì lúc lâm sự làm sao có thể lấy kỉ luật mà ràng buộc họ được…”. Vì thế: “Chưa đến trận mạc đã tìm cách sống, chưa chạm gươm đao đã có bụng lùi, nên cuối cùng quân lính trở thành vô dụng vậy”.

Nguyễn Khuyến viết: “Thực ra thì xe không tiến lên là vì ngựa không chịu đi, chính sự không nên nổi là vì người không chịu làm”. Rồi ông tự hỏi: “Có phải thiên hạ đã hết nhân tài? Chắc chắn là không phải như thế…”; và cho rằng: “Đường vào cửa quan có nhiều lối, muốn ngăn chặn bọn xấu, bọn bất tài, dùng tiền của để mua quan, xin xỏ, gian dối để thăng quan, tiến chức, không thể không bằng tư cách…”. Chữ “Tư cách” mà Nguyễn Khuyến dùng giống như từ “Tiêu chuẩn cán bộ ngày nay vậy (!). Ông còn viết: “Ai mà thứ bậc chưa đến, dù liêm chính cũng phải tra cứu thêm”, “Đường lối làm quan đã nhiều, thì việc bổ nhiệm càng phức tạp. Người thì chạy vạy ở cửa quan trên. Người đến hạn phải đổi thì chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến dân”. “Lòng tư một lúc đã sai lạc thì việc công bị bỏ trễ vậy”.

Để việc chọn đúng người tài, thăng quan đúng người, đúng việc, Nguyễn Khuyến viết: Với vua: “Lại cứ 5 năm một lần, đặc cách chọn một viên đại thần thanh liêm, cần mẫn, giỏi giang sung làm chức “Truất Trắc Sứ” ở các đạo. Viên này sẽ đi thăm hỏi khắp nơi. Người bất tài thì bị truất giáng. Người tài giỏi thì được tặng thưởng. Quan trên, ai mà cất nhắc không xứng đáng, hoặc có người hiền tài mà không biết cất nhắc thì cũng tâu xin xử lí, phạt tội thích đáng”…”. Làm được như vậy thì người liêm chính có sự khuyến khích, người tham ô có sự răn đe, mà điều uất ức của nguời dân cũng được thấu suốt lên trên vậy”...

Tuy nhiên, có được người tốt rồi, chưa chắc đã được việc. Theo Nguyễn Khuyến, sở dĩ có điều đó là vì triều đình chưa dùng được chữ tín, chữ tín tức là kỉ cương, phép nước. Vì vậy ông cho rằng: “Trong chữ Tín của một ông vua, thưởng phạt là tối quan trọng. Phải thưởng cho một người để khuyến khích muôn người. Phải trừng trị một người cho muôn người biết sợ. Lấy đó mà lập pháp, pháp nhất định lập. Lấy đó mà thi hành chính sự, chính sự nhất định thi hành. Lấy đó mà làm cho nước giàu thì điều hại nhất định bị bãi bỏ, điều lợi nhất định được dấy lên, nước sẽ giàu!...

Thông qua bài viết như một sớ tâu nhà vua, Nguyễn Khuyến khuyến nghị: “Thần cúi trông bệ hạ ấy một chữ tín ấy để khích lệ bản thân”. “Lúc đầu là tiên hiền, lúc sau là dùng hiền, cũng phải dùng chữ tín. Chớ có bất nhất. Hiệu lệnh nghiêm minh, chính là đem chữ tín ra để đặt làm hiệu lệnh. Chế độ dứt khoát chính là đem chữ tín ra đặt làm chế độ!”…

Rõ ràng, đây không chỉ là bài văn thi Đình, mà cao hơn đó chính là nhân cách, ý chí và tấm lòng vì dân, vì nước của ông với hiện trạng đất nước.

Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15/2/1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ, xã Yên Đổ, nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Khuyến thi đậu ba Giải Nguyên (Giải đầu bảng) nên thường gọi là Tan Nguyên Yên Đổ.

Nguyễn Tấn Tuấn

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám là nơi các Nho sinh, sĩ phu nước ta từ đầu thế kỉ thứ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX làm giàu học vấn. Đây chính là cơ quan quản lí giáo dục triều Nguyễn và là học phủ tối cao của triều đại phong kiến cuối cùng này…
Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Liệt sĩ nhà giáo có ở hầu hết các vùng, miền của Tổ quốc. Theo thống kê vào năm 2012, trong ngành Giáo dục có 2.219 liệt sĩ nhà giáo. Riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có hơn 4.000 nhà giáo trên khắp mọi miền đất nước đã lên đường vào miền Nam vừa dạy học, vừa cầm súng chiến đấu và đã có 621 nhà giáo đã anh dũng hi sinh.
Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng bậc nhất, là cội nguồn sức mạnh để đất nước vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua thiên tai dịch bệnh để vững bước tiến lên...
Đạo thầy trò

Đạo thầy trò

Xã hội nào nghề giáo cũng luôn được đánh giá là nghề cao quý nhất và người thầy giáo luôn có vị thế quan trọng. Câu ca dao có từ ngàn xưa: Mồng một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy là nét văn hóa về cách sống, cư xử mà ông cha ta muốn nhắc nhở con cháu.
Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ngày 5/6/1911, anh Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Để có được hoài bão vĩ đại này, vai trò của thầy Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), thầy Vương Thúc Qúy (1862-1907), thầy Lê Văn Miến (1874-1943) đối với Người rất quan trọng.

Tin khác

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”
Trong xã hội Việt Nam, người thầy có vị trí đặc biệt, nghề dạy học được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Sinh con và nuôi dưỡng con cái là công ơn trời bể của cha mẹ, nhưng dạy trẻ chóng lớn để trở thành người không chỉ biết chữ mà còn có phẩm cách tốt đẹp, gắn tình yêu thương trong gia đình với tình yêu nước là công lao to lớn của người thầy...

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” viết cho báo Sự thật (Pravda) của Liên Xô số ra ngày 1/11/1967, nhân kỉ niệm lần thứ 50 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, Nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của Nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại… là vô cùng sâu sắc”...

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước
Tháng Giêng năm 1924, từ Pa ris đến Mátxcơva, Bác Hồ vào viếng linh cữu Lênin, người bạn vĩ đại của Nhân dân các nước thuộc địa.

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ ngày thành lập đến nay, Quân đội ta ngày càng trưởng thành, đội ngũ ngày càng vững mạnh, là đội quân tiên phong luôn giương cao ngọn cờ “Bách chiến bách thắng”. Một trong những yếu tố tạo nên điều kì diệu đó chính là thực hiện tốt mối quan hệ cá nước, máu thịt đoàn kết quân-dân.

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Ngược dòng thời gian, 63 năm đã đi qua, kể từ ngày “Đường Hồ Chí Minh trên biển” chính thức đi vào hoạt động và lập nên nhiều kì tích của một con đường huyền thoại, khẳng định bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh Nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Trong đó, quê hương Bến Tre tự hào là nơi “khai sơn, phá thạch” với những con người đầu tiên rẽ sóng, mở ra con đường huyền thoại đó…

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời vào tháng 10/1947, với bút danh X.Y.Z. Đây là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền, là “cẩm nang” cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng
Cùng với Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3) dành để tôn vinh người phụ nữ, Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) được kỉ niệm để nêu bật vai trò quan trọng của một nửa thế giới, kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực để bảo đảm tương lai của các em, phát huy sức mạnh của các trẻ em gái trong quá trình xây dựng một thế giới bền vững…

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”.

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”
Đó là tiếng nói của Nhân dân ta dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai tiếng mộc mạc, ngắn gọn mà hàm chứa cả nhận thức sâu sắc qua thực tiễn và tình cảm sâu đậm của trái tim hàng chục triệu người Việt Nam…

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ
Trong suốt cuộc đời mưu sống và hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như làm phụ bếp trên tầu buôn, làm thợ sửa ảnh, sống bất hợp pháp ở một nước tư bản, hoạt động cách mạng bí mật trong nước cho đến khi làm chủ tịch nước ta, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống như khi còn khó khăn, thiếu thốn...

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời Các Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi” và lời V.I.Lênin: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công”. Kết quả phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
Công tác tham mưu của đội ngũ cán bộ các cấp đóng vai trò then chốt để tổ chức Đảng, người lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên, hiện nay có hiện tượng một số cán bộ đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm, triệt tiêu sức sáng tạo, nhiệt huyết và lòng can đảm trong công tác.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi thành lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi
Đã tròn 70 năm trôi qua, nhưng cứ đến ngày 10/10 hằng năm, ngày Giải phóng Thủ đô, cả gia đình tôi cảm nhận vô cùng hạnh phúc, vì Thủ đô giải phóng tôi được về Hà Nội và mới có được một niềm vinh dự lớn lao nhất trong cuộc đời ở đây.

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Trong tác phẩm “Dân vận” viết ngày 15/10/1949, đăng trên Báo Sự thật số 120, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.
Xem thêm
Phiên bản di động