Từ bài viết của Nguyễn Khuyến suy nghĩ về “giặc nội xâm” xưa và nay
Nghiên cứu - Trao đổi 14/04/2024 09:00
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực trạng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam thời gian qua, trong bài này, chúng tôi xin giới thiệu một “bài viết” của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cách đây hơn 150 năm.
Trong toàn bộ bài Văn sách thi Đình, khoa Tân Mùi năm 1871 ở trường thi Huế, Nguyễn Khuyến đã có một cách nhìn mới, thực tế và nghiêm khắc về kỉ cương, phép nước. Ông đã khái quát tệ nạn tham nhũng và cách dùng người dưới triều Tự Đức. Bài văn sách của một vị tri thức luôn đau đáu trước nội tình đất nước, được viết năm 1871 nhưng vẫn mang tính thời sự đến tận hôm nay. Theo ghi chép, vua Tự Đức ra đề thi Đình như sau:
“Trẫm thường đọc sách Luận Ngữ đến chỗ Từ Công hỏi về chính sự, Khổng Tử nói rằng: “Đủ lương thực, đủ binh lính, dân tin theo vậy”. Nhân nghĩ công việc hiện nay, không việc gì quan trọng hơn điều đó, mà muốn thực hiện được điều đó thì sự lựa chọn người tốt lại là quan trọng hơn cả. Trẫm từng đêm ngày lo nghĩ mà vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Đông đảo kẻ sĩ các ngươi lúc mới xuất thân ắt hẳn có sở học Kinh bang tế thế. Vậy thì những loại việc thiết thực như vậy, suy nghĩ cho từ cổ đến kim, nghĩ thế nào, làm thế nào để có công hiệu hãy nói hết với trẫm. Các ngươi chớ lặp lại người khác, chớ bàn phù phiếm, trẫm cũng bất tất phải hỏi nhiều để các ngươi có thì giờ rộng rãi, nói được hết ý nghĩa, xứng với ý muốn của trẫm”.
Ảnh minh họa |
Bài thi của Nguyễn Khuyến đã vạch trần tình trạng tham nhũng, lãng phí đang phát triển từ chốn thôn quê đến tận châu, huyện, phủ và cả triều đình. Ông viết: “Chốn đồng điền nhiều con em chơi bời, lười nhác. Nơi tổng, xã có cường hào sâu mọt đục khoét. Nhà giàu đặt nợ lãi để kiếm cách bao chiếm. Con buôn nắm giữ lấy giá cả để kiếm lợi to. Đó là nguồn gốc của sự thiếu thốn vậy!”. Thêm vào đó, trong thì Bộ, Viện, Tự… (cơ quan của triều đình) ngoài thì tỉnh, phủ… “Đem số thuế khóa rất hẹp hòi mà cung đốn cho bọn nhân viên rất phiền nhũng, thì của cải làm sao mà không hao tán. Nhiều lần triều đình đã phải gộp người lại hoặc bớt đi (giống như tinh giản biên chế ngày nay), nhưng bọn quan lại lạm ngạch, bọn cường hào quen thói “tập hợp nhau để cố nài xin, việc ấy rốt cục phải nửa chừng đình chỉ”…
Sau khi nêu lên thực trạng nói trên của xã hội đương thời, ông đề xuất với nhà vua như sau: “Thần xin rằng: Từ nay những việc như tập tục xa xỉ, ăn mặc xa hoa, con em lười nhác, hào cường bóc lột… nhất thiết đều cấm hết, mà cấm một cách dứt khoát”. Ông cũng vạch trần nạn tham nhũng trong quân đội của triều đình với các vấn nạn như: “Nhà cửa, vật dụng của viên quản xuất cũng đều do người lính cung cấp; than củi, đèn dầu, đòi hỏi không bao giờ chán. Có người được chọn ra chờ đợi rồi thả cho họ về để lấy tiền. Có người được đi phép nhưng vẫn còn tạm lưu lại để đòi lễ vật! Đến như tới phiên sai phái, có thể lấy tiền mà thay, đến kì thao diễn có thể lấy tiền mà thuê. Ngày thường đã lấy đút lót làm sa ngã ý chí của họ rồi thì lúc lâm sự làm sao có thể lấy kỉ luật mà ràng buộc họ được…”. Vì thế: “Chưa đến trận mạc đã tìm cách sống, chưa chạm gươm đao đã có bụng lùi, nên cuối cùng quân lính trở thành vô dụng vậy”.
Nguyễn Khuyến viết: “Thực ra thì xe không tiến lên là vì ngựa không chịu đi, chính sự không nên nổi là vì người không chịu làm”. Rồi ông tự hỏi: “Có phải thiên hạ đã hết nhân tài? Chắc chắn là không phải như thế…”; và cho rằng: “Đường vào cửa quan có nhiều lối, muốn ngăn chặn bọn xấu, bọn bất tài, dùng tiền của để mua quan, xin xỏ, gian dối để thăng quan, tiến chức, không thể không bằng tư cách…”. Chữ “Tư cách” mà Nguyễn Khuyến dùng giống như từ “Tiêu chuẩn cán bộ ngày nay vậy (!). Ông còn viết: “Ai mà thứ bậc chưa đến, dù liêm chính cũng phải tra cứu thêm”, “Đường lối làm quan đã nhiều, thì việc bổ nhiệm càng phức tạp. Người thì chạy vạy ở cửa quan trên. Người đến hạn phải đổi thì chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến dân”. “Lòng tư một lúc đã sai lạc thì việc công bị bỏ trễ vậy”.
Để việc chọn đúng người tài, thăng quan đúng người, đúng việc, Nguyễn Khuyến viết: Với vua: “Lại cứ 5 năm một lần, đặc cách chọn một viên đại thần thanh liêm, cần mẫn, giỏi giang sung làm chức “Truất Trắc Sứ” ở các đạo. Viên này sẽ đi thăm hỏi khắp nơi. Người bất tài thì bị truất giáng. Người tài giỏi thì được tặng thưởng. Quan trên, ai mà cất nhắc không xứng đáng, hoặc có người hiền tài mà không biết cất nhắc thì cũng tâu xin xử lí, phạt tội thích đáng”…”. Làm được như vậy thì người liêm chính có sự khuyến khích, người tham ô có sự răn đe, mà điều uất ức của nguời dân cũng được thấu suốt lên trên vậy”...
Tuy nhiên, có được người tốt rồi, chưa chắc đã được việc. Theo Nguyễn Khuyến, sở dĩ có điều đó là vì triều đình chưa dùng được chữ tín, chữ tín tức là kỉ cương, phép nước. Vì vậy ông cho rằng: “Trong chữ Tín của một ông vua, thưởng phạt là tối quan trọng. Phải thưởng cho một người để khuyến khích muôn người. Phải trừng trị một người cho muôn người biết sợ. Lấy đó mà lập pháp, pháp nhất định lập. Lấy đó mà thi hành chính sự, chính sự nhất định thi hành. Lấy đó mà làm cho nước giàu thì điều hại nhất định bị bãi bỏ, điều lợi nhất định được dấy lên, nước sẽ giàu!...
Thông qua bài viết như một sớ tâu nhà vua, Nguyễn Khuyến khuyến nghị: “Thần cúi trông bệ hạ ấy một chữ tín ấy để khích lệ bản thân”. “Lúc đầu là tiên hiền, lúc sau là dùng hiền, cũng phải dùng chữ tín. Chớ có bất nhất. Hiệu lệnh nghiêm minh, chính là đem chữ tín ra để đặt làm hiệu lệnh. Chế độ dứt khoát chính là đem chữ tín ra đặt làm chế độ!”…
Rõ ràng, đây không chỉ là bài văn thi Đình, mà cao hơn đó chính là nhân cách, ý chí và tấm lòng vì dân, vì nước của ông với hiện trạng đất nước.
Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15/2/1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ, xã Yên Đổ, nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Khuyến thi đậu ba Giải Nguyên (Giải đầu bảng) nên thường gọi là Tan Nguyên Yên Đổ.