Người cao tuổi Việt Nam luôn noi gương Bác về tự học và học tập suốt đời
Nghiên cứu - Trao đổi 15/08/2025 12:30
Như chúng ta đã biết, Việt Nam đang trong quá trình già hóa dân số, số lượng NCT ngày càng tăng. Tính đến năm 2023, nước ta có hơn 16 triệu NCT, chiếm gần 17% dân số, với khoảng 60% NCT có độ tuổi từ 60-69 tuổi; hằng năm, số NCT tăng nhanh: Năm 2011 có 8,65 triệu người, năm 2021 là 12,56 triệu người, dự kiến đến 2036 có 21,253 triệu người.
Theo cơ sở dữ liệu, Bộ Công an năm 2022, do điều kiện đặc thù ở Việt Nam, có khoảng 2/3 NCT không có lương hưu, chưa được hưởng trợ cấp (hiện NCT từ 80 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng; từ 1/7/2025, chính sách này được áp dụng đối với người từ 75 tuổi); thu nhập thấp hoặc không có thu nhập thường xuyên. Do đó, hoạt động khởi nghiệp, tạo việc làm một mặt trở nên cần thiết đối với số NCT có khả năng, điều kiện nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cá nhân và gia đình; mặt khác, còn thu hút lao động, tạo việc làm cho một số người khác, góp phần hạn chế tình trạng thất nghiệp, giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước và xã hội trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Hoạt động khởi nghiệp và việc làm của NCT có liên quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, giữa khởi nghiệp và tham gia làm việc có sự khác nhau nhất định. NCT tham gia khởi nghiệp cũng là một hình thức việc làm, tuy nhiên, đây là khởi sự một công việc kinh doanh của bản thân, do bản thân làm chủ, tự mình đầu tư, quản lý; còn việc làm cho NCT có thể là tham gia công việc làm thuê, hoặc tự làm các công việc lao động giản đơn, không cần kiến thức, chuyên môn, quản trị để kiếm thu nhập, trang trải cuộc sống. Như vậy, khi đã khởi nghiệp là có việc làm và đã bắt tay vào lao động, làm việc; tuy vậy, không phải cứ có việc làm và làm việc đã là tham gia khởi nghiệp.
![]() |
| Khởi nghiệp của NCT: Tiềm năng, thực trạng và giải pháp |
Ngoài những đặc điểm của hoạt động khởi nghiệp nói chung, hoạt động khởi nghiệp của NCT có những đặc thù nhất định. NCT có quỹ thời gian hằng ngày thì nhiều, tuy nhiên quỹ thời gian còn lại của cuộc đời thì lại hạn hẹp. Do đó, việc tham gia khởi nghiệp có những hạn chế nhất định, vì khởi nghiệp cần có ý tưởng kinh doanh mới, cần các hoạt động “thí nghiệm”, thử và sai, thành công hoặc thất bại là bình thường; khi đã thất bại thì thời gian, cơ hội để điều chỉnh, rút kinh nghiệm, “sửa sai” không còn nhiều. Đây là điểm hạn chế, bất cập của NCT so với những người trong độ tuổi lao động, đặc biệt là thế hệ trẻ, những sinh viên đang học đại học hoặc mới ra trường. Đối với những NCT có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm quản lý, có mối quan hệ xã hội cũng là một yếu tố thuận lợi khi bắt tay khởi nghiệp trong cùng lĩnh vực hoạt động trước đó. Thực tế cho thấy những người đã có cơ sở, nền tảng từ trước, bao gồm cả kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm quản lý, điều kiện tài chính, mối quan hệ xã hội, am hiểu thị trường trong lĩnh vực ngành nghề kinh doanh... đều đạt được những thành công nhất định trong quá trình khởi nghiệp.
NCT khi tham gia khởi nghiệp có ưu điểm là có nhiều kinh nghiệm, vốn sống phong phú, từng trải nhiều, đã có trải nghiệm trong cuộc sống; nhiều người trong số đó có tri thức, có trí tuệ, sự hiểu biết trường đời. Những yếu tố này ít nhiều có ích và cần thiết cho hoạt động khởi nghiệp. Tất nhiên không phải những hiểu biết và kiến thức nào cũng được áp dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là những kinh nghiệm không liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, thương mại. Bên cạnh đó, NCT bắt đầu có hạn chế về suy nghĩ, tư duy, óc phán đoán, sự nhanh nhạy trước những biến động của kinh tế thị trường. Đặc biệt, các thao tác, kỹ năng, hiểu biết về công nghệ thông tin, chuyển đổi số, sự thành thạo về công nghệ tin học có những bất cập, không thể so sánh với những người trẻ tuổi. Đây là một trong những điểm bất lợi của NCT nói chung, nhất là khi tiếp cận các hoạt động khởi nghiệp.
Một thực tế nữa là NCT dần dần ít nhiều sa sút cả về sức khỏe và trí tuệ trong khi hoạt động khởi nghiệp đòi hỏi sự bền bỉ, có sức chịu đựng nhất định về tinh thần, tư tưởng. Hoạt động khởi nghiệp luôn tuân theo quy luật đào thải tương đối nghiệt ngã của kinh tế thị trường. Do đó, chỉ những người kiên định, có sức khỏe cả về thể lực và trí lực mới có khả năng hoạt động trên thương trường. Đây là điểm khác biệt giữa người khởi nghiệp và người đi làm công ăn lương, tự mình làm các công việc lao động giản đơn, không đòi hỏi đầu óc quản trị, tính toán cân đối đầu vào - đầu ra, đầu tư tài chính hay nguồn lực vật chất ban đầu.
Nhằm hỗ trợ, tạo cơ sở và môi trường thuận lợi về chính trị và pháp lý cho hoạt động khởi nghiệp, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về vấn đề này. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã yêu cầu “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới” (1). Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới đã đề ra nhiệm vụ “Khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong toàn xã hội, nhất là trong các lĩnh vực mới... Có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển doanh nhân nữ, doanh nhân trẻ”. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị cũng đề cập đến một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó có vấn đề khởi nghiệp.
Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành một loạt các luật nhằm tạo hành lang pháp lý hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, như: Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, Luật Việc làm năm 2013, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2017; Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017; Luật Đầu tư năm 2020; Luật Sở hữu trí tuệ năm 2006, sửa đổi năm 2022... Các văn bản này đã chính thức xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; cụ thể hóa các cơ chế, chính sách cải thiện môi trường và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp; hỗ trợ về pháp lý, khoa học công nghệ cho hoạt động khởi nghiệp; đưa ra chính sách thu hút vốn đầu tư, miễn giảm thuế, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; công nhận quyền sở hữu, hỗ trợ tiêu thụ đối với sản phẩm đổi mới sáng tạo...
Riêng đối với NCT, Luật NCT năm 2009 đã quy định: “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để NCT phát huy trí tuệ, kinh nghiệm quý và phẩm chất tốt đẹp trong phát triển kinh tế, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp” (khoản 5 Điều 23). Luật NCT cũng quy định Nhà nước có trách nhiệm “Tạo điều kiện để NCT là nhà khoa học, nghệ nhân và những NCT khác có kỹ năng, kinh nghiệm đặc biệt, có nguyện vọng được tiếp tục cống hiến... Ưu đãi về vốn tín dụng đối với NCT trực tiếp sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập, giảm nghèo”(2).
Trong các lĩnh vực khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo được chú trọng ưu tiên, nhằm tạo ra khâu đột phá trong quá trình phát triển của các ngành, địa phương. Khi ban hành Luật Thủ đô năm 2024 và các Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng, Quốc hội đã quy định các chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp gắn với đổi mới sáng tạo, nhằm huy động tối đa nguồn lực, phát huy vai trò của các tầng lớp xã hội, trong đó có NCT, bao gồm: Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân để thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và thu hút các doanh nghiệp, các định chế tài chính, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp đến với các địa phương; hỗ trợ phát triển các dự án khởi nghiệp sáng tạo để hình thành và phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; khuyến khích thử nghiệm thông qua cấp phép có thời hạn đối với công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới có tính đổi mới sáng tạo; hỗ trợ các tổ chức, cá nhân khởi nghiệp sáng tạo được sử dụng không gian đổi mới sáng tạo, cơ sở vật chất và các trang thiết bị phục vụ nghiên cứu phát triển... (Còn nữa)