Công đoàn chỗ dựa tin cậy của người lao động

Nghiên cứu - Trao đổi 21/07/2025 16:12
Trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Nhân dân ta với tinh thần yêu nước nồng nàn, khát vọng độc lập, tự chủ và tiền đồ tươi sáng của đất nước đã không tiếc máu xương, “Quyết tửcho Tổ quốc quyết sinh”. Sự hi sinh vì nước, vì dân ấy vô cùng cao quý. Tổ quốc mãi mãi ghi công, Nhân dân đời đời biết ơn và tưởng nhớ.
Sinh thời, Bác Hồ từng viết: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hi sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ”(1).
Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với nhà báo nước ngoài hơn một tháng trước khi qua đời: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”(2). Cho nên, Người luôn căn dặn: “Bổn phận chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ các thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ”.
![]() |
Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam Nguyễn Thanh Bình và Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân tặng quà cho người cao tuổi có công với cách mạng. |
“Uống nước nhớ nguồn” là đạo lí truyền thống nghìn đời của dân tộc ta. Thấm nhuần đạo lí tốt đẹp đó và thấu hiểu sâu sắc giá trị của sự hi sinh, cống hiến to lớn của các anh hùng liệt sĩ, thương binh đối với đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ. Ngày 7/11/1946, Người đã ra “Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi” với lời lẽ mộc mạc, giản dị mà chân thành, gây xúc động mạnh mẽ: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hi sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kì cách mệnh, hoặc trong thời kì kháng chiến, tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó, và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi”(3).
Là người đứng đầu đất nước, chứng chiến những hi sinh, mất mát lớn của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dành tình cảm đặc biệt đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và gia đình có công với Tổ quốc“Xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hi sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hi sinh đó không phải là uổng”(Báo Cứu quốc ra ngày 10/3/1946, đăng thư của Người gửi đồng bào Nam Bộ). Ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ và chọn ngày 27/7 hàng năm là Ngày Thương binh, liệt sĩ.
Người khẳng định: “Các liệt sĩ đã hi sinh, nhưng công trạng to lớn của các liệt sĩ đã ghi sâu vào lòng dạ của toàn dân và non sông đất nước. Các liệt sĩ đã hi sinh, nhưng chí khí dũng cảm của các liệt sĩ đã thấm nhuần vào tâm hồn của toàn quân và dân ta trong cuộc kiên quyết đấu tranh đặng giành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ trong cả nước. Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá Quốc kì vẻ vang càng thêm thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời lưu truyền với sử xanh”(4).
Báo Vệ quốc quân số 11, ra ngày 27/7/1947, đăng thư của Bác gửi Thường trực Ban tổ chức “Ngày Thương binh toàn quốc”. Đầu thư Bác viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh”. Người xót xa: “Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Ngày nay, bố mẹ họ mất một người con yêu quý. Vợ trẻ trở nên bà góa. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ. Tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không thể tái sinh”.
Trước lúc đi xa, Người gửi gắm những mong muốn của mình trong Di chúc: “Đầu tiên là công việc với con người. Đối với những người đã dũng cảm hi sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp đối với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương cần xây dựng vườn hoa và bia kỉ niệm ghi sự hi sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta.
78 năm qua, các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Đón thương binh về làng”, “Hội mẹ chiến sĩ” lan tỏa trong các ngõ ngách làng quê đã trở thành liều thuốc thần kì xoa dịu những nỗi đau mất con, mất chồng của những người mẹ, người vợ, biến nỗi đau thành niềm tự hào, thành sức mạnh trong suốt các cuộc trường chinh bảo vệ giang sơn bờ cõi. Các Mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đã được các cơ quan, đoàn thể nhận chăm sóc, phụng dưỡng suốt đời; các gia đình người có công được tặng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa; giúp đỡ các hộ gia đình chính sách bằng những ngày công, cây trồng, con giống để sản xuất. Phong trào xây dựng“xã, phường giỏi về công tác chăm sóc thươngbinh, gia đình liệt sĩ, người có công”đã phát triển rộng khắp trong cả nước. Tổ chức Ðêm thắp nến tri ân Anh hùng, liệt sĩ tại các nghĩa trang đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong dư luận xã hội.
Chúng ta cũng hết sức trân trọng và khâm phục cố gắng to lớn của những thương binh, bệnh binh, gia đình người có công đã vượt qua những đau thương, mất mát, với tinh thần “Tàn nhưng không phế”, tiếp tục mang sức lực, trí tuệ của mình để xây dựng gia đình, quê hương, đất nước giàu đẹp.
Cứ đến tháng 7 hàng năm, cả nước lại tràn ngập không khí tri ân người có công với nước. Ngày càng có nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa, quan tâm đời sống các gia đình liệt sĩ, thương binh, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm sóc phần mộ các liệt sĩ, tổ chức những hoạt động về nguồn đầy xúc động... Ở các nơi khói hương trầm mặc ấy, không chỉ trong ngày lễ, kỉ niệm 27/7, mà dường như quanh năm, dòng người khắp nơi vào các nghĩa trang thắp hương bày tỏ lòng kính trọng hàng triệu liệt sĩ đã hi sinh xương máu.
Tri ân những người hi sinh vì nước đã trở thành một nét đẹp văn hóa trong đời sống xã hội. Những việc làm đó còn có ý nghĩa giáo dục cho lớp trẻ hôm nay về một thời oanh liệt của đất nước, về đạo lí uống nước nhớ nguồn. Dù kinh tế đất nước hiện gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng các hoạt động đền ơn đáp nghĩa năm nay vẫn diễn ra sôi nổi, vui tươi và phấn khởi.
Ngày 27/7 là một ngày thiêng liêng, là dịp để chúng ta tổ chức thăm hỏi, tặng quà, thể hiện sự thương tiếc và biết ơn, tạo cuộc sống tinh thần và vật chất của người có công đầy đủ hơn, ấm áp hơn. Đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” không chỉ là nghĩa tình và nét đẹp nhân văn của dân tộc, mà còn góp phần phát triển đất nước trong kỉ nguyên vươn mình của dân tộc.
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 9, tr. 3.
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 12, tr.560.
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 4, tr.435.
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.427.