Khi tuổi già “lên đời” công nghệ
Đời sống 04/08/2025 18:32
Qua trò chuyện với các cụ, các chị đang làm nghề làm nón lá ở ấp Kênh 8B, được biết: Cuối năm 1954, một số người ở làng Phạm Pháo (tỉnh Nam Định cũ) di cư vào đây, mang theo nghề chằm nón. Đến năm 1957, nghề chằm nón chính thức hình thành tại ấp Kênh 8B.
Từ năm 1958 đến 1980 là thời kì vàng son của nghề làm nón ở đây. Cả ấp có trên 200 hộ, khoảng 500 lao động làm nghề. Nghề làm nón từng giúp nhiều hộ người dân nơi đây có thu nhập khá, thậm chí tích cóp được vàng cây. Thế nhưng, theo thời gian, nghề dần mai một. Tổ hợp tác làm nón trước đây có 25 người, nay chỉ còn 10 người, trong đó chỉ 2 - 3 hộ làm thường xuyên. Nhiều người chỉ tranh thủ lúc nông nhàn làm nón để kiếm thêm thu nhập.
![]() |
| Vợ chồng bà Phạm Thị Thang đang làm nón. |
Trải qua gần 70 năm, nghề truyền thống làm nón lá ở xã Thạnh Đông, tỉnh An Giang không chỉ là sinh kế, mà còn là biểu tượng văn hóa. Dù trải qua thời kì hưng thịnh, đến nay nghề đang dần mai một do khó khăn về đầu ra. Tuy vậy, nhiều người trong ấp vẫn bền bỉ gìn giữ nghề như một cách giữ hồn quê, giữ truyền thống. Bà Phạm Thị Thang (74 tuổi), Tổ trưởng Tổ hợp tác làm nón lá, cùng chồng là ông Phạm Văn Thu (76 tuổi) vẫn đều đặn làm nghề. Bà Thang chia sẻ: “Mỗi ngày vợ chồng tôi chằm được 2 chiếc nón đẹp, nếu nón thưa thì làm được nhiều hơn. Nay ít đơn hàng, nên tôi làm ít lại, nhưng nếu có đặt nhiều, tôi vẫn có thể làm kịp”.
Từ khi mới 7 - 8 tuổi, bà Thang đã giúp mẹ chuẩn bị lá, rồi biết làm nón từ khi mới hơn 10 tuổi. Với bà, nghề không chỉ là kế sinh nhai mà còn là truyền thống gia đình, là truyền thống văn hóa cần gìn giữ. Bà sẵn sàng truyền nghề cho con, cháu, người trong xóm để nghề không bị thất truyền.
![]() |
Nón lá ở ấp Kênh 8B được làm hoàn toàn bằng thủ công. Người thợ tỉ mỉ lựa lá mật cật, phơi khô, ủi phẳng rồi khâu từng chiếc lại với nhau, xếp đều lên khuôn chóp. Nón có 16 vành, từ lớn đến nhỏ, xếp khéo léo tạo thành hình chóp. Sau cùng, chiếc nón được quét dầu bóng tăng độ bền và thẩm mĩ.
Mỗi chiếc nón có giá từ 50.000 - 100.000 đồng tùy loại. Tuy nhiên, đầu ra hiện rất khó, công việc lại đòi hỏi sự kiên nhẫn, tỉ mỉ, khéo tay. Vì thế, nhiều người trẻ chọn làm ở các công ty, xí nghiệp để có thu nhập ổn định hơn. Bà Thang trăn trở: “Tôi có truyền nghề cho cháu nội, nhưng cháu tôi đang theo học ngành sư phạm. Tôi sợ nếu thế hệ tôi mất đi, nghề cũng không còn ai theo đuổi nữa”.
Trước thực trạng đó, chính quyền địa phương đồng hành cùng với làng nghề làm nón đang tính toán các giải pháp hỗ trợ người làm nghề. Trong đó, ưu tiên tạo điều kiện vay vốn, tìm đầu ra sản phẩm, hỗ trợ đào tạo nghề để bảo tồn nghề truyền thống.
Công tác giữ gìn và phát triển nghề làm nón truyền thống không những giải quyết được việc làm cho lao động tại địa phương, mà còn góp phần gìn giữ những giá trị văn hóa, làng nghề truyền thống của địa phương