Người yêu sao cứ vơi dần
Mới đây nghệ thuật bài chòi được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa Phi vật thể của nhân loại. Trong niềm vui cũng có phân vân của người hát, người nghe, nhiều người yêu bài chòi đặt câu hỏi nghệ thuật bài chòi rồi sẽ ra sao?
Bài chòi phản ánh nét bình dân trong sinh hoạt thôn làng. Những làn điệu của nó được sinh ra từ hát tuồng, nhưng giữa các tỉnh, thành lại có sự khác biệt mà chỉ những người thực hành bài chòi mới hiểu rõ. Nghệ nhân ưu tú Đỗ Hữu Quế, CLB bài chòi Sông Yên, TP Đà Nẵng cho rằng, làn điệu cũng như nhạc bài chòi ở Bình Định mang nhiều giai điệu của hát tuồng nên khán giả hơi khó hiểu, khó tiếp nhận; hát bài chòi ở tỉnh Quảng Nam, TP Đà Nẵng “thoát hơn”, mới nghe lần đầu hay nghe nhiều đều thấy dễ tiếp nhận và thích thưởng thức môn nghệ thuật này.
Hiện nay, có chín tỉnh duyên hải trung bộ, từ Quảng Bình đến Khánh Hòa là nơi thực hành nghệ thuật bài chòi. Phát triển nhất vẫn là tỉnh Bình Định, Quảng Nam và Đà Nẵng. Thông qua lời hát, bài chòi thể hiện tình quê hương, đất nước, yêu gia đình, tình thầy trò, tình yêu đôi lứa..., “Lấy chồng từ thuở mười lăm/ Chồng chê còn nhỏ không nằm với em/ Đến chừng mười tám đẹp xinh/ Em nằm dưới đất chồng rinh lên giường/ Một nói thương, hai nói thương, ba bốn cũng nói rằng thương/ Quớ anh ơi, thương chi hung rứa để bốn chưn giường gãy một còn ba”.
![](/media/uploaded/images/P%20Manh/VHoa/Copy%20of%201(1).jpg)
Singing game- trò chơi trong hát bài chòi
Bài chòi cũng có khi nói lên những khó khăn, trục trặc của người lao động trong cuộc sống. Còn nếu, phận “hẩm”, duyên “ôi”, lấy phải chồng lười, thì người phụ nữ hát: “Thôi thôi tôi chán anh rồi/ Tôi về, đi buôn, đi bán, trả nợ bánh tráng, trả nợ bánh xèo”. Cùng với những lời hát này, diễn cảm của người vợ là vùng vằng, chạy quanh. Người chồng lúc này phải biết cách giỗ nịnh vợ mình thương tình ở lại, để anh sửa sai: “Bây giờ anh hứa trước bà con/ anh sẽ chí thú làm ăn đàng hoàng…”. Qua lời thơ như trên, người đọc cũng khó hình dung, có khi cho rằng, thơ như vậy mà hát thì quá đơn giản. Tuy nhiên, đặt trong không gian diễn xướng âm nhạc, với cách hát luyến láy, hát lặp lại ba từ cuối cho câu thơ thứ hai, người nghe sẽ cảm nhận được tình cảm chân thành và bị cuốn hút.
Cũng như nhiều môn nghệ thuật dân tộc khác của ta, khi được vinh danh cũng là lúc không còn nhiều khán giả. Nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Trần Hồng cho biết: “Nghệ thuật bài chòi xưa có bốn làn điệu: Xuân nữ, xàn xê, cổ bản, hò Quảng. Nay, làn điệu bài chòi có cải biên, xuân nữ, xàn xê được chia làm hai thứ bậc cũ và mới. Như vậy, nghệ thuật bài chòi hiện có sáu làn điệu”. Bàn về khán giả bài chòi, nhạc sĩ Trần Hồng bộc bạch: “Khán giả của nghệ thuật này còn ít lắm. Người trẻ đến với bài chòi, tuổi cũng đã trên 40”.
Bài chòi, “bài bạc”, bầu sôNghệ thuật bài chòi được sinh ra từ cộng đồng dân cư, việc thực hành nó, giữ gìn bản sắc phụ thuộc vào người thực hành, người nghe xem. Nếu thiếu một trong hai vế, bài chòi xem như phải xếp trong… bảo tàng. Tiếp nối thế hệ hát bài chòi, Ngô Văn Hậu, 16 tuổi, ngụ xã Hòa Liên, Hòa Vang, TP Đà Nẵng cho biết, đã có bốn năm theo nhóm, theo đoàn. Hậu thích dân ca và học bài chòi. Cùng trang lứa với Hậu, nhiều bạn chê: “Hát chi mà quái quái, buồn ngủ”. Nói về điều này, Hậu cũng thở dài: “Thế hệ em, ít người mê bài chòi”!
Bài chòi dịch sang tiếng Anh là singing game - vừa hát, vừa diễn nhưng cũng vừa là cuộc chơi may rủi. Dụ người đến với bài chòi, càng đông vui, hát diễn càng thăng hoa, nên từ lâu, diễn xướng bài chòi giống cuộc vui có thưởng. Người nghe, được anh hiệu (tên gọi người điều khiển cuộc chơi) phát thẻ bài cho người đến xem. Sau đó anh hiệu ôm ống tre đựng các quân bài xóc đi, xóc lại rồi rút từng con bài. Mỗi lần rút, anh hiệu hô hát câu có tên con bài, nếu khán giả có con bài trùng tên sẽ được thưởng. Nói vậy, không có nghĩa bài chòi là bài bạc, nó chỉ là một tiết mục gần cuối của buổi sân khấu. Nhiều nghệ nhân cho biết, phần thưởng trước kia là cái nồi đất, ấm đất pha trà hay một vài dụng cụ gắn với nhà nông. Đi xem bài chòi, giống như tìm về những kỉ niệm.
“Hát bài chòi, hát lắm cũng nghiện”, Nghệ nhân ưu tú Võ Thị Ninh cho biết. Tại buổi vinh danh nghệ thuật bài chòi, có nhiều phát biểu mang đậm tính từ ngợi ca, nhưng không có ai bàn đến chuyện tổ chức hay mô hình cho bài chòi tồn tại theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Làm thế nào để bài chòi sống mãi trong lòng cộng đồng, để người xem thổn thức cùng tiếng trống, tiếng phách, cung đàn.
Tuy nhiên, số người sống được bằng nghề diễn xướng bài chòi không nhiều. Để giữ lửa nghề cho người hát, giữ thu nhập ổn định cần phải có nhiều người biết giới thiệu, đưa bài chòi đến với những đối tượng công chúng khác nhau. Ông Quế và nhiều người đã làm được điều đó, hi vọng các CLB, các nghệ nhân, những người yêu nghệ thuật bài chòi sẽ tìm ra hướng đi hiệu quả cho mình, để môn nghệ thuật này vang xa hơn.
Ninh Nguyễn