Sự việc kéo dài hơn 20 năm cần được giải quyết dứt điểm
Pháp luật 25/09/2025 11:28
Ngày 4/8/2025, TAND TP Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 179/2024/TLST-HC ngày 29/10/2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực thu hồi đất”.
Theo đó, năm 1989, bà Phạm Thị Hoàn và chồng là ông Lê Khắc Cố (mất năm 2016) thực hiện khai phá đất hoang hóa để vạt đất, làm đầm hồ nuôi trồng thủy sản, phát triển kinh tế gia đình tại thôn Ninh Tiếp, đặc khu Cát Hải, TP Hải Phòng.
Ngày 20/4/1995, UBND huyện Cát Hải ban hành Quyết định số 404/QĐ-UBND giao bổ sung thêm cho ông Lê Khắc Cố diện tích 1.422m2 đất ruộng muối liền kề về phía Đông Nam của diện tích đầm khai hoang đang sử dụng nói trên.
![]() |
| Bà Phạm Thị Hoàn cho biết thửa đất khai hoang nuôi trồng thủy sản được vợ chồng bà khai hoang năm 1989 để bảo vệ biển đảo và đầu tư nhiều tỷ đồng nhưng việc xác định bồi thường hiện nay còn thấp. |
Năm 2001, do làm muối không hiệu quả, bà Hoàn và ông Cố làm đơn gửi UBND huyện Cát Hải, Phòng Địa chính huyện Cát Hải, UBND xã Nghĩa Lộ, Ban Quản lý hợp tác xã Đại Nghĩa xin chuyển đổi mục đích sử dụng diện tích đất được giao làm muối sang đất nuôi trồng thủy sản. Sau khi được cho phép, ông Cố, bà Hoàn đã thuê người cải tạo diện tích đất trồng muối thành đất nuôi trồng thủy sản và hợp thửa vào diện tích đất đầm khai hoang nói trên để sử dụng.
Tháng 1/2004, bà Hoàn cùng chồng là ông Cố tặng cho toàn bộ phần diện tích đất nêu trên cho con trai là ông Lê Hữu Cường. Việc tặng cho được UBND xã xác nhận.
Năm 2014, ông Cường làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho diện tích đất đầm được bố mẹ cho tặng nói trên. Ngày 10/8/2015, ông Cường được UBND huyện Cát Hải cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BU477002, có diện tích 12.613m2. Đến ngày 18/9/2015 thì tiếp tục được cấp sổ đỏ số BU477182 với diện tích 2.320m2 còn lại.
Tổng diện tích đất theo GCNQSDĐ là 14.933m2. Diện tích đo đạc thực tế tại thời điểm thu hồi đất là 15.604,4m2, tăng 671,4m2 là diện tích đê bao chưa được ghi nhận hết khi đo đạc cấp GCNQSDĐ. Ranh giới thửa đất không thay đổi, không có tranh chấp với hộ sử dụng đất liền kề.
Ngày 17/10/2023, UBND huyện Cát Hải ban hành Quyết định số 1812/QĐ-UBND về việc thu hồi đất thực hiện Dự án xây dựng khu cảng hàng hóa, bến phà, bến tàu khách, nhà máy sản xuất các sản phẩm du lịch, khu dịch vụ hậu cần du lịch.
Trong đó, thu hồi 15.604,4m2 đất mà ông Cường đang sử dụng tại xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải, thuộc một phần thửa đất số 29, diện tích 14.600,6m2; phần diện tích ngoài chỉ giới giải phóng mặt bằng là 1.003,8m2. Lý do thu hồi đất để thực hiện Dự án. Tại thời điểm thu hồi đất, UBND huyện Cát Hải chưa ban hành quyết định về việc thu hồi, hủy bỏ 2 GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông Cường.
![]() |
| Bà Phạm Thị Hoàn, 67 tuổi, cùng con trai cho rằng việc thu hồi đất và bồi thường chưa đúng khiến quyền lợi gia đình bà bị xâm phạm. |
Tiếp đó, UBND huyện Cát Hải ban hành Quyết định số 1811/QĐ-UBND về việc duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thực hiện Dự án.
Sau đó, ngày 11/7/2024, UBND huyện Cát Hải ban hành Thông báo thu hồi GCNQSDĐ gồm: Số 862/TB-UBND thu hồi Giấy chứng nhận số BU477182; số 863/TB-UBND thu hồi Giấy chứng nhận số BU477002 với lý do Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Cường không đúng quy định của pháp luật đất đai.
Ngày 18/11/2024, UBND huyện Cát Hải ban hành các Quyết định số 3759/QĐ-UBND và 3760/QĐ-UBND để thu hồi Giấy chứng nhận.
Ngày 19/11/2024, UBND huyện Cát Hải ban hành Thông báo về việc thu hồi, quản lý đối với GCNQSDĐ số BU477002 và BU477182 căn cứ các Quyết định số 3759, 3760.
Liên quan đến vụ khiếu kiện hành chính trên, luật sư Lê Bá Châu, Công ty Luật CMA, Đoàn Luật sư TP Hải Phòng cho rằng, việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của gia đình bà Hoàn và con là ông Cường chưa đúng quy định của pháp luật, bởi lẽ:
Thứ nhất, đối với diện tích đất tính bồi thường, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp: UBND huyện Cát Hải đã không căn cứ trên diện tích đất được ghi nhận tại 2 GCNQSDĐ đã cấp, mặc dù tại thời điểm kiểm đếm, ban hành quyết định thu hồi, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thì các GCNQSDĐ đã cấp chưa bị thu hồi, hủy bỏ bởi bất kỳ văn bản pháp lý nào. Căn cứ Khoản 1, Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 thì GCNQSDĐ là căn cứ pháp lý để xác định quyền được bồi thường, hỗ trợ của người sử dụng đất.
Thứ hai, đối với tài sản là các ống PVC, tấm Aluminum (tấm mếch) lắp đặt trên các đầm để nuôi trồng thủy sản là phù hợp với mục đích sử dụng đất, được tạo lập, sử dụng nhiều năm trước thời điểm có Thông báo thu hồi đất. Ông Cường cũng đã giao nộp cho Tòa án các ảnh chụp thực tế nhiều năm trước về việc nuôi trồng thủy sản sử dụng ống PVC và tấm mếch của gia đình. Thực tế, phương pháp nuôi trồng thủy sản sử dụng ống PVC, tấm mếch của hộ ông Cường được Trung tâm Khuyến nông Việt Nam hướng dẫn và nhiều hộ gia đình, cá nhân trong cùng xã đã được công nhận, bồi thường với loại tài sản này. Tuy nhiên, đến hộ ông Cường, bà Hoàn thì không được bồi thường.
Thứ ba, lý do, căn cứ để thu hồi các GCNQSDĐ tại các Quyết định số 3759/QĐ-UBND và 3760/QĐ-UBND ngày 18/11/2024 là không đúng. Bởi lẽ, GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông Cường là đúng theo quy định tại Khoản 1, Điều 101 Luật Đất đai năm 2013. Trường hợp UBND Thành phố không có quy định về hạn mức đất khai hoang thì phải áp dụng các quy định của Luật Đất đai tại thời điểm cấp GCNQSDĐ để xác định hạn mức công nhận cho người sử dụng đất. Đất hộ bà Hoàn có hộ khẩu thường trú tại địa phương, trực tiếp nuôi trồng thủy sản và đây là nghề nghiệp duy nhất của gia đình, đã sử dụng ổn định, liên tục, công khai đất 34 năm (từ năm 1989 đến thời điểm thu hồi đất năm 2023) vào mục đích nuôi trồng thủy sản. Cho dù trường hợp không được cấp GCNQSDĐ thì toàn bộ diện tích đất (không quá 2 ha) cũng đủ điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ theo Khoản 2, Điều 77 Luật Đất đai năm 2013.
Thứ tư, việc xác định hạn mức bồi thường, hỗ trợ là không đúng luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Quy định hạn mức giao đất, công nhận quyền sử dụng đất là một quy phạm pháp luật. Căn cứ Khoản 10, Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy phạm này phải được ban hành dưới hình thức Quyết định. Tuy nhiên, chưa có quyết định của UBND TP Hải Phòng quy định về hạn mức giao đất nông nghiệp làm căn cứ bồi thường. UBND huyện Cát Hải chỉ căn cứ vào công văn của UBND TP Hải Phòng đồng ý chủ trương với cách xác định hạn mức giao đất do UBND huyện Cát Hải đề xuất là chưa đúng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, TAND TP Hải Phòng đã bác nội dung khiếu kiện về các quyết định thu hồi đất, phương án bồi thường… của gia đình bà Hoàn. Hiện nay, gia đình bà Hoàn đã kháng cáo toàn bộ bản án tới tòa phúc thẩm là TAND Tối cao theo quy định. Bà Hoàn và các con kỳ vọng vào bản án phúc thẩm sẽ công tâm, khách quan và gia đình bà sẽ được bồi thường thỏa đáng, đúng quy định pháp luật.