Đọc lại hồi kí “Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử”

Hồi kí “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do nhà văn Hữu Mai thể hiện là một hiện thực rộng lớn gồm nhiều sự kiện, nhiều nhân vật, nhiều địa điểm, nhiều thời điểm khác nhau. Nhân kỉ niệm tròn 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024, chúng tôi xin được góp chút suy nghĩ và sự thán phục tài cầm quân của vị Đại tướng huyền thoại…
Thời gian chủ yếu được diễn tả trong tác phẩm kéo dài khoảng 7 tháng (từ đầu tháng 10/1953, tới đầu tháng 5/1954). Không gian trong tác phẩm tập trung vào các chiến trường trên toàn cõi Việt Nam, đặc biệt là khu Tây Bắc, Bắc Bộ với điểm nóng tột độ là Điện Biên Phủ.

Ngay từ phần đầu cuốn hồi ức, vai trò Ban Thường vụ Trung ương Đảng đứng đầu là Bác Hồ đã được thể hiện đầy đủ và rõ ràng. Tại Hội nghị Tỉn Keo của Ban Thường vụ, những câu hỏi hết sức ngắn gọn của Bác và những câu trả lời cũng hết sức ngắn gọn của vị Tổng Tư lệnh Chiến dịch Võ Nguyên Giáp đã làm nổi bật nội dung chủ yếu của Hội nghị Tỉn Keo... Chúng ta cũng được nghe lời kết thúc Hội nghị Tỉn Keo của Bác Hồ: “Tổng Quân ủy phải có một kế hoạch lâu dài về mọi mặt để đối phó với kẻ địch trên chiến trường toàn quốc, sau đó phải có một kế hoạch đẩy mạnh những hoạt động du kích tại đồng bằng Bắc Bộ. về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi nhưng hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải “thiên biến vạn hóa” (trang 29).

Thêm một câu nói vô cùng cô đọng nữa của Bác Hồ là: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”. Hai câu nói lịch sử của Bác chính là chỉ thị cao nhất của Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã soi sáng toàn bộ chỉ đạo của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đối với các chiến trường cả nước, Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và soi sáng toàn bộ sự chỉ huy sáng suốt và quyết đoán của vị Tổng Tư lệnh đối với Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Đọc lại hồi kí  “Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử”

Ngày 5/1/1954, sau khi chào tạm biệt Bác Hồ, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp lên đường ra mặt trận. Tuy đã nhiều lần ra trận, nhưng chưa bao giờ Tổng Tư lệnh được chứng kiến một không khí phấn khởi, hào hùng lạ thường như lần này. Hiện lên trong cuốn hồi ức là hình ảnh rừng núi Điện Biên điệp trùng và hiểm trở, xa xôi và hẻo lánh.

Hầu hết tướng sĩ đều tin tưởng sự xuất hiện của 24 khẩu trọng pháo 105 li do Trung Quốc viện trợ sẽ làm cho hàng trăm công sự kiên cố (tức lô cốt boong-ke) của địch phải tan nát. Hấu hết đều tin tưởng phương án đánh tổng lực ở Điện Biên Phủ, đánh ào ạt chỉ trong vài ba ngày đêm, từ phía xung quanh lòng chảo và tiến lên đánh vào toàn bộ phân khu trung tâm của cứ điểm Điện Biên Phủ của địch, sẽ nhanh chóng mang lại chiến thắng. Hầu hết bộ đội khi đó đều tin tưởng ở sức mạnh của tinh thần quyết thắng của toàn quân. Bộ đội ta hào hứng sẵn sàng vượt mọi khó khăn để chuẩn bị bước vào giờ tổng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Nhưng toàn thể mấy vạn tướng sĩ ở mặt trận đều hoàn toàn không biết rằng, khi mọi người hào hứng và tin tưởng thắng lợi sắp ở trong tay cũng chính là lúc vị Tổng Tư lệnh, bằng sự nhạy cảm của một thiên tài quân sự và bằng sự nhìn xa trông rộng của mình, bắt đầu cảm nhận có một cái gì khác lạ, có một cái gì không ổn về phía bộ đội ta trong quá trình chuẩn bị tổng tấn công, những điều đó báo hiệu lờ mờ một hiểm họa đang chực chờ quân ta.

Đạo làm tướng không cho phép ông bỏ qua những dấu hiệu khác thường và nguy hiểm có thể xuất hiện giữa một mặt trận vừa lớn vừa đặc biệt như trận Điện Biên Phủ. Đạo làm tướng đòi hỏi ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính mạng của toàn bộ lực lượng trọng pháo Việt Nam (gồm 2 tiểu đoàn 105 li) và toàn bộ lực lượng pháo phòng không Việt Nam (1 trung đoàn pháo 37 li) cùng mấy vạn chiến sĩ, tức hầu hết các đại đoàn chủ lực của toàn quân. Với trọng trách được giao, ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về thắng bại của trận Điện Biên Phủ.

Theo thói quen và phong cách “luôn luôn nghiên cứu thức tế, luôn luôn xuất phát từ thực tế, và luôn luôn phân tích thực tế” của mình, Tổng Tư lệnh đã bí mật và trực tiếp cùng hai cán bộ cấp dưới đều nghiên cứu kĩ lưỡng sự chuẩn bị hết sức công phu và giàu kinh nghiệm của chiến dịch để từ đó đi đến quyết định về vấn đề cách tiến công, về vấn đề cánh đánh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận thấy: Địch đang gấp rút tăng cường quân số, tăng cường lương thực, tăng cường vũ khí, tăng cường bố phòng mọi mặt cho Điện Biên Phủ. Đồng thời ngoài những điểm yếu cơ bản, địch có nhiều điểm mạnh hơn hẳn quân ta như: Pháp có không quân hiện đại, có xe tăng, có trọng pháo 155 li và hệ thống lô cốt ngầm dày đặc với nhiều loại vũ khí cực mạnh. Pháp lại có nhiều đơn vị thiện chiến, giàu kinh nghiệm chiến đấu theo chiến thuật phòng ngự tích cực tại những nơi lô cốt ngầm. Ngoài ra, quân đội Pháp còn được Mỹ giúp đỡ nhiều về vật chất và động viên mạnh mẽ về tinh thần…

Bác Hồ chỉ đạo trận Điện Biên Phủ.
Bác Hồ chỉ đạo trận Điện Biên Phủ.

Từ đó, một sự tiên đoán đến trong tâm trí vị Tổng Tư lệnh rằng: Nếu tiến công Điện Biên Phủ, thì mấy vạn bộ binh của ta, không có không quân yểm trợ, không có xe tăng, không có pháo lớn 155 li, dưới bão bom của không quân Pháp, liệu có thể ào ạt băng qua cánh đồng Mường Thanh để tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm hùng mạnh như vậy trong vài ba ngày! Vấn đề sống chết lúc này là phải lập tức tìm cho ra bằng được một cách tiến công phù hợp, một nghệ thuật quân sự thích hợp. Vẫn biết chiến lược chung của cách mạng Việt Nam khi đó là tiến công, tiến công liên tục. Nhưng ở Điện Biên Phủ, tiến công bằng cách nào, tiến công như thế nào để vừa giành được toàn thắng ở mức cao nhất lại có thể giảm thấp sự mất mát xương máu của mấy vạn tướng sĩ thuộc những đơn vị chủ lực mạnh nhất của ta khi ấy.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã buộc phải giải một bài toán mới lạ và cực kì hóc búa trong tình trạng khẩn cấp, một lời giải lầm lẫn, dù nhỏ, về cách tiến công, về cách đánh, vào giờ phút quyết liệt nhất, sẽ dẫn đến một sự tan rã của hầu hết lực lượng pháo binh non trẻ duy nhất và hầu hết các đơn vị chủ lực mạnh nhất của ta. Và nếu như vậy, kháng chiến chống thực dân Pháp của ta sẽ đi vào bế tắc. Vấn đề sống chết và khẩn cấp đặt ra lúc này chính là “Trách nhiệm trước vận mệnh cuộc kháng chiến, chính là trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc của Tổng Tư lệnh Chiến dịch Điện Biên Phủ”.

Thời gian không chờ đợi, tình thế gấp gáp. Theo kế hoạch đã được chuẩn bị, đúng 17 giờ ngày 26/1/1954 là thời điểm tổng tấn công. Cả đêm 25/1/1954, Đại tướng không ngủ, trăn trở suy nghỉ các phương án. Hình ảnh vị tướng với nắm ngải cứu buộc quanh đầu vào buổi sáng hôm sau là hình ảnh chân thực và xúc động nhất. Ông không thể để mấy vạn bộ đội tinh nhuệ, cái vốn cơ bản và quý báu nhất do 7 năm kháng chiến tôi luyện bị nướng cháy trong vài ba ngày đêm ở lòng chảo Điện Biên Phủ. Phải có ngay giải pháp quyết định trong giờ phút quyết định cho trận chiến sinh tử. Phải đặc biệt bình tĩnh, đặc biệt kiên nhẫn và đặc biệt kiên quyết. Đặt lại toàn bộ vấn đề cách thức tổng tấn công, đặt lại vấn đề cách đánh trước toàn thể Đảng ủy chiến dịch. Sau đó nữa chính là đích thân Tổng Tư lệnh, nhân danh Bí thư Đảng ủy Chiến dịch sẽ đưa vấn đề thay đổi cách tiến công, thay đổi toàn bộ cách đánh địch ra trước toàn thể Đảng ủy Chiến dịch trong một cuộc họp bất thường và khẩn cấp để bàn bạc dân chủ.

Sáng 26/1/1954, cuộc họp diễn ra. Từ Tham mưu trưởng Chiến dịch, Chủ nhiệm Chính trị Chiến dịch, đến Chủ nhiệm Cung cấp Chiến dịch, tất cả đều nêu những lí do đơn giản nhưng rất chính đáng: Công tác chuẩn bị mọi mặt theo phương án đánh nhanh, thắng nhanh đã được hoàn thành về cơ bản, toàn thể các đơn vị đang náo nức chờ đợi trận đánh mở màn, và lương thực cũng chỉ đủ cung cấp trong ít ngày, nếu đánh kéo dài, bộ đội không có gạo ăn. Vì vậy ai nấy đều muốn thực hiện phương án cũ. Quyết tâm nổ súng lúc 17 giờ ngày 26/1/1954. Cuộc họp diễn ra căng thẳng và phải tạm dừng để các thành viên vừa giải lao vừa suy nghĩ thêm. Không khí trở nên nghiêm trọng bao phủ căn hầm chỉ huy của Đại bản doanh Chiến dịch. Về phần mình, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp vẫn hoàn toàn tin tưởng ở sự sáng suốt của Đảng ủy.

Khi xong giải lao, cuộc họp Đảng ủy Chiến dịch lại tiếp tục, Đại tướng Võ Nguyên Giáp bình tĩnh và nghiêm giọng nói: Tình hình khẩn trương. Cần sớm có quyết định, vô luận tình hình nào, chúng ta vẫn phải nắm nguyên tắc cao nhất là đánh chắc thắng. Trước khi tôi lên đường ra trận, Bác Hồ đã trao nhiệm vụ: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh. Không chắc thắng không đánh”. Với tinh thần trách nhiệm trước Bác và Bộ Chính trị, tôi đề nghị các đồng chí trả lời câu hỏi: “Nếu đánh có chắc thắng trăm phần trăm hay không?”.

Trước câu hỏi đanh thép và nóng bỏng ấy, trước tỉ lệ phần trăm chắc nịch, trước phương pháp làm việc hết sức dân chủ và đầy tinh thần trách nhiệm của vị Tổng Tư lệnh, các Đảng ủy viên đã phải cân não và đều lượt trả lời: “Không thể!”.

Như vậy là rõ, phương pháp đánh nhanh, thắng nhanh không chắc chắn thắng. Mà đã không chắc chắn thắng thì không đánh. Nhưng không đánh, trong trường hợp này không hề có nghĩa là giải binh, không hề có nghĩa là từ bỏ cuộc đại tổng tiến công vào tập đoàn cứ điểm cực kì hiểm độc và cực kì hùng mạnh Điện Biên Phủ. Trái lại quyết tâm tiến công quyết liệt giành toàn thắng tại Điện Biên Phủ phải mạnh hơn gấp đôi. Vấn đề cốt tử là “Tấn công như thế nào, đánh như thế nào”. Nói một cách cụ thể hơn thì vấn đề cụ thể là “thay đổi toàn bộ cách tiến công. Thay đổi toàn bộ cách đánh”, để vừa giành được toàn bộ phần thắng ở mức cao nhất, lại vừa giãm thấp nhất sự hi sinh xương máu của các chiến sĩ tại chiến trường.

Với tư cách Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng Chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định: Hoãn giờ tổng tấn công. Toàn mặt trận chuyển ngay sang thực hiện phương án mới, đánh chắc, tiến chắc. Pháo binh phải kéo pháo ra, đặt pháo theo những vị trí an toàn hơn, bí mật hơn và chuẩn xác hơn…

Trong hồi kí một quyết định khó khăn nhất, nhà văn Nguyễn Đình Thi kể lại: Ngay sau cuộc họp lịch sử đó, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cho mời nhà văn lên đại bản doanh. Sáng hôm sau 27/1/1954, tại hầm chỉ huy, vị Tổng Tư lệnh nói với nhà văn: Đại đoàn 316 sẽ làm đường, anh đến sớm ở đó, theo dõi và viết bài để in ngay tại mặt trận trên báo Quân đội Nhân dân.

Nhận được báo cáo của Tổng Tư lệnh, Ban Thường vụ Chiến dịch, đứng đầu là Bác Hồ hoàn toàn nhất trí. Vì vậy, công tác chuẩn bị đã kéo dài thêm nhiều tuần lễ nữa. Đúng 17 giờ 5 phút ngày 13/3/1954, cuộc tổng khai chiến Điện Biên Phủ bắt đầu, cuộc đại tiến công vào cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu. Phương án đánh chắc, tiến chắc trong trận quyết chiến, chiến lược ở Điện Biên Phủ cuối cùng đã giành được toàn thắng cao nhất với sự hi sinh xương máu thấp nhất của chiến sĩ. Nghệ thuật quân sự đánh chắc, tiến chắc của vị Đại tướng huyền thoại tại Điện Biên Phủ đã bảo toàn được cơ bản tính mạng mấy vạn tướng sĩ tinh hoa của cuộc chiến chống thực dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần quyết định việc giải phóng Thủ đô Hà Nội mà không đổ máu, không mất một mũi tên hòn đạn.

Phải đánh và chiến thắng ở mức cao nhất đi đôi với giảm thấp nhất sự hi sinh xương máu của tướng sĩ, nguyên tắc đó vừa là một luận điểm lớn của chiến tranh chính nghĩa xưa nay của loài người (nhưng khó thực hiện), vừa là một trong những luận điểm lớn của tư tưởng quân sự của Đảng ta. Luận điểm này là một trong những đóng góp lớn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thực tiễn chiến trường và vào sự phát triển lí luận quân sự Việt Nam và thế giới ngày nay.

“Hội nghị Tỉn Keo” là một chương trung thực lạ thường, hiện thực lạ thường và lôi cuốn lạ thường về hình ảnh Ban Thường vụ (tức Bộ chính trị) đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, đặc biệt là việc Bác Hồ đã chỉ đạo giai đoạn cuối của công cuộc kháng chiến chống Pháp của cách mạng Việt Nam. Nói cách khác, với “Hội nghị Tỉn Keo”, nhà văn Hữu Mai đã phác thảo một bức tranh truyền thần hiếm có và đặc sắc nhất về một cuộc họp trọng đại của Bộ Chính trị, do Bác Hồ chủ tọa. Quyết định khó khăn nhất là một chương tuyệt diệu. Với chương này, Nhà văn Hữu Mai đã dựng lại được một đoạn phim tư liệu lịch sử vô giá về đạo đức làm tướng, về tinh thần trách nhiệm trước dân tộc, về phong cách chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp huyền thoại.

Nguyễn Tấn Tuấn

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám là nơi các Nho sinh, sĩ phu nước ta từ đầu thế kỉ thứ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX làm giàu học vấn. Đây chính là cơ quan quản lí giáo dục triều Nguyễn và là học phủ tối cao của triều đại phong kiến cuối cùng này…
Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Liệt sĩ nhà giáo có ở hầu hết các vùng, miền của Tổ quốc. Theo thống kê vào năm 2012, trong ngành Giáo dục có 2.219 liệt sĩ nhà giáo. Riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có hơn 4.000 nhà giáo trên khắp mọi miền đất nước đã lên đường vào miền Nam vừa dạy học, vừa cầm súng chiến đấu và đã có 621 nhà giáo đã anh dũng hi sinh.
Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng bậc nhất, là cội nguồn sức mạnh để đất nước vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua thiên tai dịch bệnh để vững bước tiến lên...
Đạo thầy trò

Đạo thầy trò

Xã hội nào nghề giáo cũng luôn được đánh giá là nghề cao quý nhất và người thầy giáo luôn có vị thế quan trọng. Câu ca dao có từ ngàn xưa: Mồng một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy là nét văn hóa về cách sống, cư xử mà ông cha ta muốn nhắc nhở con cháu.
Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ngày 5/6/1911, anh Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Để có được hoài bão vĩ đại này, vai trò của thầy Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), thầy Vương Thúc Qúy (1862-1907), thầy Lê Văn Miến (1874-1943) đối với Người rất quan trọng.

Tin khác

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”
Trong xã hội Việt Nam, người thầy có vị trí đặc biệt, nghề dạy học được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Sinh con và nuôi dưỡng con cái là công ơn trời bể của cha mẹ, nhưng dạy trẻ chóng lớn để trở thành người không chỉ biết chữ mà còn có phẩm cách tốt đẹp, gắn tình yêu thương trong gia đình với tình yêu nước là công lao to lớn của người thầy...

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” viết cho báo Sự thật (Pravda) của Liên Xô số ra ngày 1/11/1967, nhân kỉ niệm lần thứ 50 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, Nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của Nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại… là vô cùng sâu sắc”...

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước
Tháng Giêng năm 1924, từ Pa ris đến Mátxcơva, Bác Hồ vào viếng linh cữu Lênin, người bạn vĩ đại của Nhân dân các nước thuộc địa.

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ ngày thành lập đến nay, Quân đội ta ngày càng trưởng thành, đội ngũ ngày càng vững mạnh, là đội quân tiên phong luôn giương cao ngọn cờ “Bách chiến bách thắng”. Một trong những yếu tố tạo nên điều kì diệu đó chính là thực hiện tốt mối quan hệ cá nước, máu thịt đoàn kết quân-dân.

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Ngược dòng thời gian, 63 năm đã đi qua, kể từ ngày “Đường Hồ Chí Minh trên biển” chính thức đi vào hoạt động và lập nên nhiều kì tích của một con đường huyền thoại, khẳng định bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh Nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Trong đó, quê hương Bến Tre tự hào là nơi “khai sơn, phá thạch” với những con người đầu tiên rẽ sóng, mở ra con đường huyền thoại đó…

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời vào tháng 10/1947, với bút danh X.Y.Z. Đây là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền, là “cẩm nang” cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng
Cùng với Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3) dành để tôn vinh người phụ nữ, Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) được kỉ niệm để nêu bật vai trò quan trọng của một nửa thế giới, kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực để bảo đảm tương lai của các em, phát huy sức mạnh của các trẻ em gái trong quá trình xây dựng một thế giới bền vững…

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”.

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”
Đó là tiếng nói của Nhân dân ta dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai tiếng mộc mạc, ngắn gọn mà hàm chứa cả nhận thức sâu sắc qua thực tiễn và tình cảm sâu đậm của trái tim hàng chục triệu người Việt Nam…

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ
Trong suốt cuộc đời mưu sống và hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như làm phụ bếp trên tầu buôn, làm thợ sửa ảnh, sống bất hợp pháp ở một nước tư bản, hoạt động cách mạng bí mật trong nước cho đến khi làm chủ tịch nước ta, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống như khi còn khó khăn, thiếu thốn...

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời Các Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi” và lời V.I.Lênin: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công”. Kết quả phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên

Khắc phục tình trạng né tránh, sợ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
Công tác tham mưu của đội ngũ cán bộ các cấp đóng vai trò then chốt để tổ chức Đảng, người lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên, hiện nay có hiện tượng một số cán bộ đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm, triệt tiêu sức sáng tạo, nhiệt huyết và lòng can đảm trong công tác.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi thành lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi

Huy hiệu Bác Hồ - phần thưởng lớn nhất của đời tôi
Đã tròn 70 năm trôi qua, nhưng cứ đến ngày 10/10 hằng năm, ngày Giải phóng Thủ đô, cả gia đình tôi cảm nhận vô cùng hạnh phúc, vì Thủ đô giải phóng tôi được về Hà Nội và mới có được một niềm vinh dự lớn lao nhất trong cuộc đời ở đây.

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Trong tác phẩm “Dân vận” viết ngày 15/10/1949, đăng trên Báo Sự thật số 120, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.
Xem thêm
Phiên bản di động