Con người dưới cách nhìn của y học cổ truyền (Kì 20)
Sức khỏe 25/02/2021 15:00
6. Bệnh lí tạng Phế
6.1. Phế âm hư
Phế âm hư do mắc bệnh lâu ngày, hay bệnh mới mắc làm tổn thương đến phế âm. Cũng có thể do Thận âm hư dẫn đến Phế âm hư. Phế âm hư có thể chia thành hai loại đó là Phế âm hư (đơn thuần) và âm hư hỏa vượng.
Biểu hiện lâm sàng của chứng Phế âm hư:
Nếu phế âm hư: Bệnh nhân ho ngày càng nặng, ho khan, không có đờm, hoặc nếu có đờm thì đờm ít mà dính, họng khô ngứa, người gầy, chất lưỡi hơi đỏ, ít tân dịch, mạch tế vô lực.
Nếu âm hư hỏa vượng: Ngoài các triệu chứng của phế âm hư kể trên, bệnh nhân còn có thêm các triệu chứng khác như ho ra máu, miệng khô khát, sốt hoặc cảm giác nóng, sốt về chiều, lòng bàn tay nóng, ra mồ hôi trộm, táo bón, nước tiểu sẫm màu, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.
Bệnh cảnh Y học hiện đại thường gặp tương quan với chứng phế âm hư như là:
Lao phổi.
Ung thư phế quản - phổi.
Pháp trị chứng phế âm hư:
Phế âm hư (đơn thuần) dùng pháp: Tư âm dưỡng phế.
Âm hư hỏa vượng dùng pháp: Tư âm giáng hỏa.
6.2. Phế khí hư:
Phế khí hư là do ho lâu ngày làm tổn thương phế khí, do tì hư không vận hóa đồ tinh vi của thủy cốc lên làm phế khí hư. Ngoài ra, tâm, thận khí hư cũng sẽ ảnh hưởng đến phế khí.
Biểu hiện lâm sàng của chứng phế khí hư đó là: Ho không có sức, thở ngắn, ngại nói, tiếng nói nhỏ, người mệt mỏi vô lực, tự ra mồ hôi, sắc mặt trắng bệch, chất lưỡi nhạt, mạch hư nhược.
Bệnh cảnh Y học hiện đại thường gặp tương quan với chứng phế khí hư như là:
Hen phế quản mạn nặng.
Suy hô hấp mạn.
Khí Phế thũng.
Lao phổi.
Pháp điều trị chứng Phế khí hư đó là: Bổ ích phế khí.
6.3. Phong hàn thúc phế
Nguyên nhân của chứng phong hàn thúc phế đó là do phong hàn tà xâm nhập làm cho phế khí không tuyên phát - túc giáng được mà sinh ra bệnh.
Biểu hiện lâm sàng của chứng Phong hàn thúc phế bao gồm: Bệnh nhân ho, tiếng ho mạnh, có khi suyễn, đờm loãng trắng dễ khạc, miệng không khát, chảy nước mũi, sợ lạnh, đau mình mẩy, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn.
Phương pháp điều trị chứng Phong hàn thúc phế đó là: Tán hàn tuyên phế.
6.4. Phong nhiệt phạm phế:
Nguyên nhân của chứng Phong nhiệt phạm phế đó là do phong nhiệt tà xâm nhập vào, làm cho phế khí không tuyên phát được mà sinh bệnh.
Biểu hiện lâm sàng của chứng Phong nhiệt phạm phế bao gồm: Bệnh ho có đờm, đờm vàng dính khó khạc, có khi ho khạc ra đờm dính máu, miệng khô, thích uống nước, chảy nước mũi đục, đau họng, đầu lưỡi đỏ, mạch phù sác.
Phương pháp điều trị chứng Phong nhiệt phạm phế đó là: Thanh nhiệt tuyên phế.
6.5. Đàm trọc làm trở ngại phế
Nguyên nhân của chứng Đàm trọc làm trở ngại phế đó là do đàm thấp xâm nhập vào phế, khiến cho phế mất khả năng tuyên phát và túc giáng, từ đó sinh ra bệnh.
Biểu hiện lâm sàng của chứng Đàm trọc làm trở ngại phế bao gồm: Bệnh nhân ho nhiều đờm, đờm trắng dễ khạc, bệnh nhân khò khè tức ngực, rêu lưỡi vàng trắng dày, mạch hoạt.
Nếu là hàn thấp thì bệnh nhân sợ lạnh, đờm loãng, khi gặp lạnh bệnh càng tăng. Nếu thấp tà ngưng lại ở phế sẽ xuất hiện các chứng ngực sườn đầy tức, ho, đau ngực, rêu lưỡi trắng mỏng.
Phương pháp điều trị chứng Đàm trọc làm trở ngại phế đó là: Táo thấp hóa đàm.
7. Bệnh lí phủ Đại trường
7.1. Đại trường thấp nhiệt
Chứng đại trường thấp nhiệt thường hay gặp vào mùa Thu, gây hội chứng lị và ỉa chảy nhiễm khuẩn.
Biểu hiện lâm sàng của chứng Đại trường thấp nhiệt bao gồm: Đau bụng, đi lị, mót rặn, đại tiện ra máu mũi, cảm giác nóng rát ở hậu môn, nước tiểu đỏ ngắn, rêu lưỡi vàng dày, mạch huyền hoạt mà sác.
Phương pháp điều trị chứng Đại trường thấp nhiệt đó là: Thanh nhiệt trừ thấp, hành khí.
7.2. Táo bón do dịch đại trường giảm
Nguyên nhân của chứng táo bón do dịch đại trường giảm đó là do nhiệt kết bên trong làm cho vị âm hư, dịch đại trường giảm. Chứng bệnh này hay gặp ở người già, phụ nữ sau khi sinh và những người bị bệnh có sốt cao.
Biểu hiện lâm sàng của chứng táo bón do dịch đại trường giảm bao gồm: Đại tiện táo khô, khó đi ngoài, nhiều ngày đi một lần, kèm thêm hoa mắt, hôi miệng, mạch sáp hay tế, chất lưỡi đỏ, ít tân dịch, rêu lưỡi vàng khô.
Phương pháp điều trị chứng táo bón do dịch đại trường giảm đó là: Nhuận trường, thông tiện.