Chuyện về anh hùng nuôi rắn và “thầy rắn” của vùng sông nước Mekong
Đời sống 29/01/2025 07:10
1. Ông già xăm xăm đi vào Xí nghiệp Dược liệu Quân khu 9, đằng sau ông là mấy thanh niên chắc nụi, da đen nhẻm. Gặp Tư Dược ở cửa phòng khách, ông nói lớn:
- Tao nghe mày nuôi rắn, tao tới!
Tư Dược chưa kịp mời ông vào nhà, ông đã hỏi:
- Mày nuôi bao nhiêu?
Tư Dược nhìn ông già quắc thước, râu tóc bạc phơ, dáng đi chắc nịch, nói giỡn:
- Mười con.
- Rắn gì?
- Ri voi, ri cóc.
- Vậy mà cũng nuôi!
- Nói giỡn chơi, chứ toàn thứ dữ không hà, ông Hai.
- Đâu mày cho tao coi.
Tư Dược dẫn ông già tới khu nhà nuôi rắn không thích nghi. Rắn hổ mang trong từng lớp lồng xếp ngay ngắn, có hơi lạ, ngóc cao đầu, bành cổ khè nghe như ống tre thổi lửa. Ông già chắp tay sau lưng, gật gật đầu làm rung chòm râu dài đến ngực. Tư Dược lại dẫn ông già đến khu bể âm trong đất, nuôi theo lối thích nghi, bảo một chiến sĩ xuống bới lớp rơm lên, ông già tằng hắng trước những con mai gầm xếp lớp, xoắn xuýt vào nhau, khoang vàng khoang đen lấp lánh.
Du khách đến với Trại rắn Đồng Tâm. |
- Tao chịu mày - Trên con đường trải dài giữa những cây thuốc dẫn về phòng khách, ông già khen Tư Dược.
Tư Dược lại giỡn:
- Cho ông Hai xem chơi bấy nhiêu thôi, còn thì… bí mật.
- Bí mật gì nội trong ngày tao cũng coi hết.
Trong bữa tiệc với thực đơn chế biến từ thịt rắn và rùa nuôi cùng với rượu cửu xà, ông già nói với Tư Dược:
- Tao có bốn chục đệ tử. Tụi nó đến không đủ, chỉ có mấy đứa đây. Mày chịu thì làm đệ tử thứ bốn mốt. Bữa nhậu hôm nay coi như làm lễ ăn thề. Tao và đám đàn em của mày đây sẽ đi bắt cho mày những con rắn độc trời gầm đất lở!
Tư Dược nâng li rượu:
- Xin tôn ông Hai là thầy, các em học trò thầy đây là sư huynh, tôi là sư đệ. Tôi sẽ đề nghị Quân khu trả lương cho ông Hai bằng lương tôi, các em đây sẽ trở thành công nhân quốc phòng của xí nghiệp. Tôi sẽ cho hai chiến sĩ đi theo ông Hai học nghề bắt rắn, cũng để giúp ông trong lúc tuổi già sức yếu.
- Bậy mày, tao đâu đã yếu! Dân U Minh vẫn kêu tao là “Ông già gân”!
2. Một buổi trưa giữa mùa khô năm 1981, chẳng bao lâu sau tiếng đồn về Trại rắn Tư Dược lan xuống U Minh Thượng - giang sơn rắn của Hai Tượng, ông tìm đến Trại rắn không phải vì tò mò mà vì muốn tận mắt thấy cách nuôi rắn và chế các loại thuốc bổ, thuốc chữa bệnh từ rắn, chế các loại thuốc trị rắn cắn. Phần Tư Dược, khi gặp ông già, anh rất mừng vì nghe tài bắt rắn của ông đã lâu. Anh hi vọng từ ông và các môn đệ của ông, Trại rắn Đồng Tâm sẽ có thêm nhiều con rắn quý hiếm mà lượng nọc độc của nó đạt mức kỉ lục.
Ông già đi rồi, Tư Dược thầm nghĩ cách giúp đỡ ông. Anh biết ông chỉ có một người con trai độc nhất, tập kết từ miền Bắc về, nhưng dù đã 80 tuổi ông vẫn không chịu ở với con vì đã quen “tứ chiếng giang hồ” như chính ông nói. Đã trọn một đời “chơi rắn”, ông nói rắn cắn ông chai tay, khỏi trị. Tư Dược biết không có điều đó, chẳng qua là ông chỉ bị rắn lành cắn, hoặc rắn độc cắn mà không phun nọc hay quá ít nọc. Ông cũng đã chữa trị cho nhiều người bị rắn cắn bằng những bài thuốc của riêng ông, khỏi thì nhiều, chết thì ít. Ai chết, ông cho là “hết thời”. Ông bắt rắn bán hoặc cho dân nhậu xài, chứ chưa bao giờ nghĩ đến việc chế biến con rắn, từ nọc độc đến da, thịt, mỡ, xương của nó thành những vị thuốc quý. Ông là một ông thầy dân gian chứ không phải là một ông thầy khoa học.
Ông già Hai Tượng đến giữa lúc Trại Dược liệu - hay như dân trong vùng quen gọi là “Trại rắn Tư Dược” đã mang tên Xí nghiệp Dược liệu Quân khu 9 để chỉ đúng chức năng và quy mô của nó. Hẳn ông Hai chưa biết được rằng, có được cơ ngơi này, trung tá Trần Văn Dược và đồng đội đã trải qua bao gian lao, nguy hiểm. Hòa bình mới được 2 năm, bác sĩ quân y, thiếu tá Trần Văn Dược đang làm viện trưởng một viện quân y thì có lệnh của Quân khu cùng dược sĩ Lý Văn Kiều và y sĩ Phan Khắc Nhẫn thành lập Đội Nuôi trồng dược liệu, đến cắm chốt giữa một bãi sậy, trong chiến tranh là bãi mìn bảo vệ căn cứ Đồng Tâm khét tiếng của quân Mỹ bên bờ sông Tiền, thuộc xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Vốn liếng trong tay họ là mấy cái thuốn dò mìn, một ít cuốc, xẻng. Gỡ mìn, mở được một lối đi, rồi mở được một khoảng đất hẹp dựng chòi, Đội Dược liệu vay ngân hàng 25.000 đồng (không dám vay nhiều vì chưa biết lấy khoản nào để trả) mua mấy con bò, con dê nuôi làm vốn. Không đủ tiền thuê máy xúc đào ao thả cá, họ vần công với dân quanh vùng. Tư Dược không sợ mìn, sợ khổ mà lại sợ vợ. Năm lần bảy lượt chị cứ khăng khăng cho rằng, anh bị kỉ luật mới phải ra “vọc đất”. Chị bắt anh trả lon, trả chức về nhà chị nuôi. Tư Dược hoang mang nhưng không thể nghe lời vợ.
Nỗi lo của Tư Dược và đồng đội suốt thời gian vỡ hoang chuẩn bị mặt bằng cho trại dược liệu là con rắn giống và kinh nghiêm nuôi, kinh nghiệm thuốc. Anh nhớ cha mình - một nhà nho chuyên bốc thuốc làm phúc, đã truyền cho anh một số bài thuốc Nam cổ truyền nhưng sau này theo Tây y, anh ít nghĩ đến nó. Nếu như áp dụng cách pha chế thuốc của cha anh thì chỉ mới dừng lại ở kinh nghiệm dân gian. Anh phải đưa những công thức y học hiện đại vào y học dân tộc. Tư Dược ra miền Bắc tham quan các trại dược liệu, những trại nuôi rắn và tìm đọc sách y để học hỏi.
Lối ra của anh trên cơ sở những suy nghĩ ấy. Cục Hậu cần Quân khu 9 chấp nhận phương án của anh: Từ con rắn mà đi lên.
Một thuận lợi đối với Tư Dược là có “kho rắn” ở Đồng bằng sông Cửu Long, với đủ chủng loại, nhất là các loại rắn rất độc như hổ chúa, hổ mang, mai gầm. Anh nghiên cứu hệ sinh thái của loài rắn để tìm ra cách nuôi chúng. Rắn mua về (sau này phần lớn là do Xí nghiệp tự bắt và gây giống), anh nuôi bằng phương pháp không thích nghi, một lồng một con, một lồng hàng chục con. Thức ăn cho rắn có thể bằng mồi tịnh. Từ việc chủ động con giống, anh nuôi rắn bằng phương pháp thích nghi. Hàng chục bể nuôi được xây có thể nuôi hàng trăm con một bể, và mỗi bể là một loại rắn riêng, từng con có trọng lượng như nhau. Anh cho xây những bể mấy chục mét vuông để nuôi khép kín, tức dưới đáy bể đổ đất thành mô, trồng cây họ đậu, dây leo để thu hút cào cào, châu chấu về làm mồi cho cóc, cóc có nơi làm hang đẻ, rắn ăn cóc mà lớn lên, đẻ và ấp trứng. Đã có nhiều vốn, anh xây một khuôn viên có nhiều mương rạch, trồng cây bản địa, tường thành cao, thả rắn tự do trong ấy với chuột, cóc, ếch, nhái.
Khi ông già Hai Tượng về thăm Tư Dược lần thứ hai để trao cho anh một số rắn quý hiếm như đã hứa, ông lại chú ý đến ao cá và cây thuốc cùng những con thú để làm thuốc, nhận ra mình đi trong trại Tư Dược mà vẫn mát mẻ như đi trong rừng tràm, rừng đước. Tư Dược không bỏ phí một tấc đất nào trong hơn chục hécta của Xí nghiệp.
Ở các khu nuôi rắn theo kiểu thích nghi, bao giờ cũng có năm tầng được sử dụng: Tầng trên cùng là sum suê long não, tràm bông vàng, tràm gió, tầng thứ hai là giàn thiên lí, tóc tiên, tầng thứ ba là cây cảnh, ba tầng ấy đều là những cây thuốc; tầng thứ tư nuôi rắn, tầng cuối cùng thả cá, thả lươn. Ngoài ao cá nửa hécta đào từ thuở Tư Dược mới về lập nghiệp ở đây, giữa những liếp cây thuốc là mương nuôi cá, bờ liếp nơi thả rắn lành sống tự do. Điều làm ông già Hai Tượng ngạc nhiên nữa là ở đây khỉ giỡn với rái cá, gấu theo người như chó, nai đứng nhai cỏ như bò, cò la cà kiếm ruồi, cây thuốc nào có hoa cũng đều thấy ong mật lấy nhụy.
Ông già Hai Tượng lại tằng hắng:
- Mày định làm trại của mày thành vườn bách thú sao Tư Dược?
- Dạ, công viên dược liệu thì đúng hơn, ông Hai - Tư Dược vừa vỗ vỗ vào con trăn gấm vàng rực, rất quý hiếm, vừa trả lời ông già. Bấy giờ ông Hai Tượng mới chú ý đến bàn tay cong mềm mại của Tư Dược mà ông nghĩ đó là kiểu bàn tay đỡ đẻ vì ông có biết đôi chút cái nghề đó trong những đêm bắt rắn ngủ lại giữa trời nước Đồng Tháp Mười, U Minh Hạ, U Minh Thượng. Ông hỏi Tư Dược:
- Tay mày bị rắn cắn mấy lần mà có ngón củn?
- Dạ, mới có năm lần thôi ông Hai.
- Tao tưởng mày phải được miễn giảm cái khoản đó chớ!
Ông Hai cười, Tư Dược cũng cười. Nhờ những bài thuốc tự chế mà ba lần cái chết đã cận kề, anh đều qua khỏi. Xí nghiệp của anh đã cứu sống 7.000 nạn nhân của rắn khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Ông già Hai Tượng vẫn chưa tin điều đó, cứ cho rằng Tư Dược và những người mà Tư Dược cứu được là do “chưa hết thời”. Cái sai lầm của ông đã đổi bằng tính mạng của chính ông, đau đớn thay!
3. Tư Dược không ngờ lần gặp ông già Hai Tượng ấy là lần cuối cùng. Chẳng bao lâu sau, hai chiến sĩ anh cử đi học nghề, giúp đỡ ông đem về cho anh một “bức thư tuyệt mạng” mà trên mặt giấy ngả màu loang lổ những vết máu là mấy chữ xiêu vẹo: “Hết thời! Chết!”. Hai chiến sĩ lau nước mắt kể lại rằng, ông Hai Tượng tìm được cái hang rắn dưới gốc một cây tràm lão ở U Minh Thượng, biết chắc là rắn hổ chúa nhưng ông không lựa chiều thuận để bắt mà cứ thọc đại tay vào. Con rắn đang ấp trứng, đớp ông liền. Ông cười, chửi thề, không chịu cho sơ cứu, ông nói “Hết thời” và run rẩy bảo lấy giấy bút viết thư cho Tư Dược.
Tư Dược lo đám tang chu đáo cho ông già Hai Tượng, chôn cất ông ở nghĩa trang liệt sĩ Minh Hải. Bốn chục môn đệ của ông đã quy tụ về Xí nghiệp của anh, trở thành đồng đội và học trò của anh, thế nhưng chưa lúc nào anh khuây khỏa nỗi nhớ ông. Ông còn rất khỏe để sống trên trăm tuổi, để còn bắt những con rắn “trời gầm đất lở”, nhưng ông đã chết vì không vượt qua được chủ nghĩa kinh nghiệm! Ông vẫn chưa thấy hết cái bề thế của Xí nghiệp Dược liệu này, từ 25.000 đồng vốn ban đầu, nay tài sản đã lên đến nhiều tỉ đồng, hằng năm sản xuất rất nhiều loại Đông dược quý và thu về không ít ngoại tệ từ nọc rắn.
Giám đốc Xí nghiệp Dược liệu Quân khu 9, đại tá Trần Văn Dược mất năm Kỷ Tỵ 1989, đúng 60 năm ông sinh ra - năm con Rắn 1929.
4. Trại rắn Đồng Tâm từ lâu đã mang tên mới là Trung tâm Nuôi trồng, Nghiên cứu, Chế biến dược liệu Quân khu 9, có chức năng nghiên cứu khoa học, cấp cứu, điều trị cho quân và dân bị rắn độc cắn; sản xuất thuốc y học dân tộc, bảo tồn cây, con thuốc làm dược liệu, bảo tồn gen các loài rắn độc; là một bảo tàng trên 40 loài rắn các loại với hàng ngàn cá thể, và trở thành một khu du lịch sinh thái mỗi năm thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài nước. Trung tâm còn có khoa cấp cứu và điều trị rắn độc cắn, mỗi năm cứu trên 1.000 người với tỉ lệ thành công gần như tuyệt đối. Nơi đây còn nuôi dưỡng và nhân giống gấu ngựa, trăn, trăn gấm, công, trĩ, đà điểu, khỉ, cáo, cá sấu, ba ba vàng vô cùng hiếm.
Nhớ về một thời gây dựng rồi để lại một di sản độc đáo và đồ sộ, tôi không thể quên Đại tá, Anh hùng Lao động Trần Văn Dược và những sĩ quan, chiến sĩ dưới quyền ông trong 8 năm đầu làm nên tên tuổi Trại rắn Đồng Tâm, không thể quên ông già Hai Tượng - một “thầy rắn” mà ở vùng sông nước Mekong chỉ có một…