Cách nhận biết và điều trị bệnh Rubella
Sức khỏe 01/08/2018 10:16
Rubella - Bệnh sốt phát ban chủ yếu ở nước ta
Bệnh sốt phát ban đang lây lan với tốc độ nhanh. Không chỉ trẻ em mà số người lớn mắc sốt dịch trong đợt này cũng chiếm tỉ lệ khá cao. Số lượng bệnh nhân nhập viện tăng mạnh, trong đó có khá nhiều ca nặng xuất hiện biến chứng viêm não.
Bệnh Rubella do vi-rút rubella gây ra, đây là bệnh sốt phát ban lành tính, nhưng rất nguy hiểm đối với phụ nữ mang thai. Bệnh rất dễ lây lan, chủ yếu là qua đường hô hấp và người nhiễm bệnh là nguồn bệnh duy nhất. Trẻ mắc hội chứng Rubella bẩm sinh sẽ là nguồn truyền nhiễm rất cao cho người tiếp xúc, vi-rút có thể đào thải nhiều tháng sau khi sinh. Những triệu chứng của bệnh rất nhẹ nên rất khó phát hiện, đặc biệt ở trẻ em.
Bệnh khởi phát sau 10 ngày đến 15 ngày kể từ lúc tiếp xúc với người bệnh. Triệu chứng thông thường là mệt mỏi, sốt nhẹ, nhức đầu, sưng hạch kéo dài từ 1 đến 7 ngày. Những nốt ban màu hồng mịn, bắt đầu từ mặt và nhanh chóng lan xuống thân, sau đó xuống cánh tay và chân trước trước khi biến mất. Ban tồn tại từ 1 đến 5 ngày, nhưng thường gặp nhất là 3 ngày. Trong khoảng thời gian từ 7 ngày trước phát ban và trong lúc phát ban là thời gian mà người bệnh có khả năng lây bệnh cao nhất.
Phân biệt bệnh Rubella với bệnh sởi
Bệnh Rubella và bệnh sởi có triệu chứng phát ban khá giống nhau. Tuy nhiên, biểu hiện lâm sàng của Rubella thường nhẹ hơn, chỉ biểu hiện rõ khi bệnh toàn phát. Trước hết, bệnh sởi thường gặp ở trẻ từ 1 tuổi trở lên, thời gian nung bệnh 7 đến 10 ngày. Bệnh khởi phát trong 2 đến 3 ngày với các triệu chứng: Sốt đột ngột từ 38 độ trở lên, mắt ướt, kèm nhèm, ho, chảy nước mũi, tiêu chảy… Khi bệnh toàn phát, sẽ sốt cao 38,5 đến 39 độ, li bì, mệt mỏi, các ban sởi dày, mịn, xuất hiện đầu tiên ở sau tai, lan ra mặt, cổ xuống thân mình, tứ chi trong 1 đến 2 ngày. Bệnh sẽ lui khi hết sốt, ban bay dần theo trình tự mọc và để lại vết thâm trên da.
Còn bệnh Rubella có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nung bệnh 12 đến 14 ngày, khởi phát với các triệu chứng sốt nhẹ, các dấu hiệu mắt ướt, ho, chảy nước mũi, ỉa lỏng… nhưng gần như không thấy. Khi bệnh toàn phát, các biểu hiện mới rõ: Mệt mỏi, sốt nhẹ, chảy nước dãi và rõ ràng nhất là nổi mẩn đỏ trên da giống như bệnh sởi. Trẻ ít khi nằm li bì, xung huyết mắt, da mặt, hạch to ở dọc hai bên cổ, không đau. Các nốt ban trên da dạng chấm đỏ rải rác, mọc không có quy luật. Có thể thấy đau khớp. Khi bệnh lui sẽ hết sốt, ban bay nhanh không theo quy luật, không để lại các dấu vết trên da, hạch trở về bình thường muộn hơn, thường sau 1 tuần.
Về biến chứng, bệnh sởi có thể gây viêm phổi, viêm phế quản thậm chí dẫn đến tử vong (nhất là ở trẻ dưới 1 tuổi), viêm tai giữa, xoang, răng lợi, tiêu chảy mất nước, suy dinh dưỡng; viêm loét giác mạc… Các biến chứng thường xuất hiện khi bệnh toàn phát hoặc đã lui. Còn bệnh Rubella biến chứng chủ yếu là đau và sưng khớp, nhất là ở những phụ nữ cao tuổi (chiếm 70%), viêm não, xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm thần kinh, gây dị dạng thai nhi ở phụ nữ có thai. Phụ nữ mắc bệnh Rubella khi đang mang thai có khả năng sinh con bị các dị tật bẩm sinh như bệnh tim, đầu nhỏ, chậm phát triển tâm thần, đục thủy tinh thể, điếc…
Biện pháp phòng ngừa bệnh Rubella
Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh Rubella. Biện pháp phòng bệnh duy nhất là tiêm chủng. Loại vắc-xin đang sử dụng hiện nay là vắc-xin phối hợp ngừa 3 bệnh: Sởi, quai bị, rubella. Sử dụng cho trẻ em trên 12 tháng tuổi và người lớn. Ngoài ra, có thể phòng bệnh bằng các biện pháp không đặc hiệu khác như: Mặc đủ ấm, ăn uống đủ dinh dưỡng, cách li và thực hiện các biện pháp phòng lây lan vì bệnh truyền nhiễm rất nhanh qua đường hô hấp.
Lịch tiêm chủng ngừa 3 bệnh Rubella, sởi, quai bị được áp dụng như sau: Trẻ em, mũi thứ nhất: 12 tháng tuổi; mũi thứ hai: 4 đến 6 tuổi. Các bậc cha mẹ nên đưa trẻ đi tiêm chủng đúng lịch và tại các cơ sở y tế. Trước khi tiêm, cán bộ y tế cần khám sơ loại, nếu trẻ đang mắc các bệnh khác, có thể hoãn lịch tiêm đến khi trẻ khỏe mạnh bình thường. Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tiêm một liều duy nhất, nhưng chỉ được có thai sau khi tiêm 3 tháng.
Đỗ Thông (Tổng hợp)