Buông lỏng quản lí từ trên xuống
Từ 1987 đến 1992, Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hòa hợp đồng với nhiều hộ dân trồng và chăm sóc 190 ha rừng tại vành đai Tổng kho Long Bình cũ, trong đó có 29,9ha thuộc khu phố 8, phường Long Bình, TP Biên Hòa. Do được Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hoà làm ngơ, những người có hợp đồng sử dụng đất đã cắt đất bán dần. Năm 2001, ông Trần Đình Xướng, Giám đốc Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hoà, đồng ý để ông Ngô Văn Yến sang lại hợp đồng trồng rừng, diện tích 1ha cho ông Phạm Đức Hiền. Năm 2005, ông Hiền bán hết đất như những người có hợp đồng khác. Tuy đất mua trái phép, nhưng đã sử dụng ổn định trước ngày 1/7/2004, nên người sử dụng đất được pháp luật thừa nhận.
Đến nay, trên 2.000 căn hộ và xưởng sản xuất đồ gỗ được xây ở đất mua bán trên chưa ai có sổ đỏ, nhưng việc xây dựng, kể cả xây nhà cao tầng, đều không cần giấy phép, mà có 3 “đầu nậu” lo liệu mọi chuyện. Ở đây ai cũng biết, chính một số lãnh đạo phường Long Bình “che chở” cho 3 đầu nậu này. Nếu đất ở đây giá 6 triệu đồng/m2, thì Nhà nước đã bị thiệt hại khoảng 1.800 tỉ đồng. Trong diện tích trên, 1/3 (khoảng 100.000m2) ổn định từ đầu, 2/3 (khoảng 200.000m2) được mua đi bán lại trong gần 30 năm qua. Ở TP Biên Hòa ai cũng biết, mà UBND tỉnh Đồng Nai không biết là điều vô lí. Ai cũng nghĩ, do có người nhiều quyền lực che chở, nếu không làm sao ông Xướng và ông Đa tồn tại đến hôm nay?
![](/media/uploaded/images/P%20Manh/Pluat/Untitled%20(1).jpg)
Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hòa tố cáo có 24 cây tràm bị cưa, kết luận điều tra quy kết
các bị cáo cưa 24 cây. Sau khi Ban điều hành khu phố, các bị cáo và nhà báo tìm kiếm chỉ có 12 cây,
Cơ quan điều tra mới chịu rút số cây bị cưa xuống, chứng tỏ quá quan liêu.
2.600m2 đất bị lấy ra sao?Năm 2005, có 6 hộ gồm: Nguyễn Thị Anh, Vũ Thị Mộng Thu, Đỗ Thị Le, Vũ Thị Mộng Huyền, Nguyễn Thị Thu Hường, Ngô Quang Tuyên mua của ông Phạm Đức Hiền, mỗi người một thửa đất liền nhau, tổng cộng 2.600m2, phần đất bà Thu mua có căn nhà cấp 4. Năm 2007, bà Thu thành lập Công ty Thuận Thu, đặt văn phòng tại đây (số 40A, tổ 23, khu phố 8, phường Long Bình), được Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy phép kinh doanh gỗ. Còn 5 hộ, chưa có điều kiện xây nhà. Năm 2008, Công ty Hùng Đạt thành lập, được 6 hộ này cho để nhờ hàng trên đất của họ. Ngày 9/1/2012, ông Xướng lập hợp đồng cho Công ty Hùng Đạt “mượn” diện tích này, nhằm giúp Công ty chiếm đoạt đất của 6 hộ. Bị 6 hộ gửi đơn tố cáo, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai cho thanh tra, rồi hủy hợp đồng “mượn đất” này.
Không từ bỏ ý đồ, ngày 10/4/2012, ông Xướng ra thông báo hủy hợp đồng của ông Ngô Văn Yến, rồi ngày 28/11/2012, kí tiếp hợp đồng “bảo vệ rừng” với Công ty Hùng Đạt, tại diện tích 2.600m2 nói trên. Năm 2001, ông Xướng đồng ý để ông Yến sang lại hợp đồng cho ông Hiền, năm 2005 ông Hiền đã bán hết đất thì năm 2012 còn gì mà huỷ? Chỉ có 1/4ha đất, với 15 cây tràm mà bảo là rừng? Không riêng ông Yến, tất cả các hợp đồng ở đây không tồn tại trên thực tế, nên không thể hủy bất cứ hợp đồng nào. Trò hề của ông Xướng là “động tác giả”, nhằm hợp lí hoá cái gọi là hợp đồng “bảo vệ rừng”, thế mà Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi trường im lặng. Sau đó, ông Xướng 2 lần có công văn đề nghị UBND phường Long Bình xử lí đối với Công ty Thuận Thu. Ngày 5/7/2012, UBND phường Long Bình cưỡng chế, phá nhà làm việc của Công ty Thuận Thu. Ngày 13/10/2013, sáu hộ dân cưa 12 cây tràm để tiến hành sử dụng đất. Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hoà cho rằng, dân cưa 24 cây của họ, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vu án hủy hoại tài sản. Sự thật, chỉ có 15 cây tràm mọc rải rác trên đất mua từ 8 năm trước, nay họ cưa 12 cây.
Vi phạm tố tụng rất nghiêm trọngNgày 11/7/2014, Công an TP Biên Hòa khởi tố 8 người, 5 người bị bắt giam, rồi Viện Kiểm sát Nhân dân (KSND) TP Biên Hòa truy tố họ tội “Hủy hoại tài sản”. Ngày 15/12/2014, Tòa án Nhân dân (TAND) TP Biên Hòa xét xử sơ thẩm, buộc tội 5 bị cáo bị tạm giam mỗi người 5 tháng 4 ngày tù, bằng thời gian họ bị tạm giam, 3 người tại ngoại bị phạt mỗi người 6 tháng tù treo. Chủ tọa phiên tòa, thẩm phán Dương Văn Đức không cho luật sư tranh tụng, không cho các bị cáo tự bào chữa, cố tình vi phạm Điều 216, Điều 217, Điều 218 Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật sư Trần Vũ Hải có đơn tố cáo thẩm phán Đức ngay tại Tòa, nhiều nhân chứng đã kí xác nhận.
Tại phiên phúc thẩm ngày 8/4/2015, theo Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hòa, số cây này đã bán, thu được tiền nên không bị thiệt hại. Đại diện Viện KSND tỉnh cho rằng: “Đã nghiên cứu hồ sơ rất kĩ, nhưng không tìm ra căn cứ phạm tội của các bị cáo. 12 cây tràm bị cưa là tang vật vụ án, Cơ quan điều tra không niêm phong bảo vệ, để Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hoà bán đi, là vi phạm nghiêm trọng về bảo quản vật chứng. Không có vật chứng, không xác định được hành vi phạm tội hủy hoại tài sản. Cần trả hồ sơ để điều tra xét xử sơ thẩm lại”. Luật sư Trần Vũ Hải khẳng định: Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hoà đã cung cấp cho Cơ quan điều tra 10 tài liệu giả, để làm căn cứ buộc tội các bị cáo. Không có tài liệu nào cho thấy 12 cây tràm bị cưa là của Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hoà…
Buộc tội hủy hoại tài sản, thì phải xác định được giá trị thiệt hại, nhưng tang vật đã bị bán, nên không có căn cứ xác định thiệt hại, mà Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hoà thừa nhận không bị thiệt hại, không yêu cầu bồi thường. Đề nghị Tòa tuyên bố các bị cáo vô tội. Sau 5 ngày nghị án, ngày 13/4/2015, TAND tỉnh Đồng Nai tuyên y án sơ thẩm. Đây là trường hợp chưa từng có trong lịch sử tố tụng ở Việt Nam. Viện KSND, luật sư và bị cáo có cùng quan điểm, các bị cáo không phạm tội, nhưng Tòa vẫn buộc tội.
Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản trong quá trình tố tụng, quyết định của Hội đồng xét xử phải trên cơ sở kết quả tranh tụng, nhưng 2 phiên tòa diễn ra ngược lại. Tại phiên sơ thẩm, chủ tọa không cho luật sư và các bị cáo tranh luận với Viện KSND. Còn phiên phúc thẩm, thì kết quả tranh tụng một đằng, phán quyết một nẻo. Hậu quả là 8 bị cáo đã bị mất đất, còn bị phạt tù, trong khi không có người bị thiệt hại. Quả là chuyện kì lạ chưa từng có. (Còn nữa)
Trần Mỹ