Hành vi ném chất bẩn, hoá chất vào nhà người khác

Tư vấn pháp luật 01/08/2024 10:42
Theo nguyên tắc chung, muốn phân chia tài sản khi li hôn, vợ chồng phải phân định được tài sản đó là tài sản chung hay riêng của vợ, chồng. Trường hợp xác định đó là tài sản riêng của vợ thì người vợ sẽ toàn quyền sở hữu tài sản đó. Nếu là tài sản chung hai vợ chồng sẽ chia tài sản theo Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) năm 2014.
Khoản 1, Điều 33 Luật HN&GĐ quy định tài sản chung của vợ chồng gồm: Tài sản do vợ chồng tạo ra; thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kì hôn nhân, trừ trường hợp đặc biệt quy định tại Khoản 1, Điều 40 Luật này.
Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
![]() |
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Điều 34 Luật HN&GĐ quy định trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung mà pháp luật quy định phải đăng kí quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng phải ghi tên cả 2 vợ chồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp, nếu giấy chứng nhận chỉ ghi tên một người, khi phát sinh tranh chấp nếu không có căn cứ để chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mỗi bên, tài sản đó được coi là tài sản chung.
Điều 43 Luật HN&GĐ quy định, tài sản riêng của vợ hoặc chồng gồm: Tài sản mà mỗi người có được trước khi kết hôn; tài sản thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà pháp luật quy định thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Tài sản hình thành từ những tài sản riêng này cũng được coi là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kì hôn nhân được coi là tài sản chung của vợ, chồng. Sau khi chia tài sản, những tài sản được chia sẽ trở thành tài sản riêng.
Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014: Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi li hôn. 1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi li hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết. 2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. 3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch. 4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này. Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. 5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. 6. TAND Tối cao chủ trì phối hợp với Viện KSND Tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này. |