Nơi cưu mang nhiều NCT cơ nhỡ, không nơi nương tựa
Nhịp sống 30/04/2025 11:24
Khí phách mà Anh hùng LLVTND Nguyễn Ngọc Quế nói tới không chỉ là sự anh dũng, mưu trí vượt qua những khó khăn trở ngại trùng khơi khi đột kích, tiến công giải phóng các điểm đảo của 50 năm trước; mà qua thời gian, cùng với truyền thống oanh liệt của những “Đoàn tàu không số”, “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, của khí chất kiên cường “còn người còn đảo” đã hun đúc thành khí phách Trường Sa.
Khí phách đó là bểu tượng, niềm tự hào lớn lao của cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân Việt Nam, của Quân đội Nhân dân Việt Nam, của chủ nghĩa Anh hùng dân tộc. Và hẳn nhiên khí phách đó phải được nuôi dưỡng, lan toả trở thành điểm tựa vững chãi cho các thế hệ.
![]() |
| Anh hùng LLVTND Nguyễn Ngọc Quế nhận quà chúc mừng động viên từ đồng chí Trần Lưu Quang (khi giữ chức Bí thư Thành uỷ Hải Phòng) |
Câu chuyện gần gũi của Đại tá Phạm Văn Huy, trợ lý Phòng Thông tin, Bộ Tham mưu Quân chúng Hải quân là một ví dụ. Được tăng cường tham gia mặt trận giải phòng quần đảo Trường Sa, với Binh nhì Phạm Văn Huy thuộc Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 38, Sư đoàn 2, Quân khu 5, ngày đó Trường Sa vẫn là sự hoang sơ và nhiều phần lạ lẫm. Ông Huy nhớ lại, ngày 27/4, khi đặt chân lên đảo Nam Yết, hoà chung khí phách hừng hực giải phóng các đảo, ông say sưa thực hiện nhiêm vụ hỗ trợ truyền dẫn thông tin. Khi nghe tin quần đảo Trường Sa được giải phóng, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đất nước thống nhất, ông hoà mình vào niềm vui đại thắng.
“Thú thật, lúc bấy giờ còn trẻ nên tôi vẫn chưa cảm nhận hết được giá trị của trọn vẹn non sông, sự thiêng liêng chủ quyền biển, đảo. Nhưng từ đó, Trường Sa luôn trực chờ trong tâm trí tôi. Tôi tự hào và dõi theo Trường Sa trong từng nhịp đập. Và dù đã bốn lần đến thăm các đảo, nhà giàn nhưng trong chuyến đi lần thứ năm vẫn háo hức, ngóng trông như lần đầu”, ông Huy bộc bạch.
Hải trình của Đoàn công tác số 11 trên con tàu KN-290 từ ngày 17 đến 23/4 vừa qua, ông Huy là một nhân chứng của lịch sử 50 năm giải phóng quần đảo Trường Sa. Ông bày tỏ: Trở lại thăm Trường Sa hôm nay càng thấy được giá trị cao cả của độc lập chủ quyền. Trường Sa không chỉ là lãnh thổ biển, đảo thiêng liêng mà đó còn là cơ đồ, tiềm lực quốc gia. Trường Sa bình yên nhưng vẫn vẹn nguyên khí phách của năm nào.
![]() |
| Đại tá Phạm Văn Huy (thứ 2 từ trái qua) trở lại thăm quần đảo Trường Sa, năm 2025 |
Cán bộ, chiến sĩ quần đảo Trường Sa đến từ mọi miền của Tổ quốc, vượt qua khó khăn bền gan bám biển, đảo, nhà giàn DK1 để bên cạnh việc thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, còn tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn giúp đỡ ngư dân. Qua đó tô thắm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ - người chiến sỹ Hải quân”, thúc đẩy xây dựng biển đảo “Mạnh về phòng thủ, tốt về lối sống, đẹp về cảnh quan môi trường, mẫu mực về đoàn kết quân dân”.
Ngược mốc thời gian 50 năm trước, tại cuộc họp ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị đã đồng ý với kiến nghị của Quân ủy Trung ương và được ghi vào nghị quyết: “Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân Ngụy đang chiếm giữ”.
Ngày 2/4/1975, sau khi nghe đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh cánh quân phía Đông, báo cáo về thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị: “tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa”5 vì vùng quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Đúng 4 giờ ngày 11/4/1975, các tàu vận tải 673, 674, 675 của Đoàn 125, Hải quân, chở Đoàn C75 bí mật rời quân cảng Đà Nẵng ra đánh chiếm các đảo ở quần đảo Trường Sa với phương châm tác chiến “bí mật, bất ngờ tấn công”. Trong quá trình di chuyển, các tàu của ta gặp máy bay địch trinh sát. Tuy nhiên, do cả ba tàu 673, 674, 675 đã cải trang thành tàu đánh cá nước ngoài nên không bị phát hiện và tấn công.
![]() |
| Lễ chào cờ tại đảo Trường Sa |
Sau khi phân tích, đánh giá lực lượng địch, Đoàn C75 thống nhất đánh chiếm đảo Song Tử Tây trước nhằm làm bàn đạp tấn công các đảo còn lại và đánh giá phản ứng của đối phương. 19 giờ ngày 13/4/1975, các tàu di chuyển theo các hướng khác nhau, tàu 673 tiếp cận từ phía Đông, tàu 674 và 675 án ngữ ở phía Bắc và phía Nam cách đảo 15 hải lý để đề phòng tàu của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở phía Bắc xuống và hai tàu đang đóng ở đảo Nam Yết.
Vào hồi 4 giờ 30 phút ngày 14/4/1975, sau 2 quả đạn B41 được bắn lên đảo, mở đầu trận đánh, các mũi đồng loạt tiến công vào các mục tiêu, công sự của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở trên đảo. Do bị tấn công bất ngờ, quân trên đảo chống trả yếu ớt. “Sau 30 phút chiến đấu, ta diệt 6 tên địch, số còn lại tháo chạy tán loạn. Thừa thắng, quân ta tiếp tục truy lùng và gọi hàng, bắt sống 33 tên còn lại trên đảo, thu toàn bộ vũ khí của chúng gồm 1 khẩu ĐKZ, 2 khẩu cối 61mm, 2 đại liên, 2 trung liên, 45 khẩu súng bộ binh và đạn dược”. 5 giờ 15 phút, đảo Song Tử Tây được hoàn toàn giải phóng, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được kéo lên đỉnh cột, trước bia chủ quyền của đảo.
Bị mất đảo Song Từ Tây, quân đội Việt Nam Cộng hòa điều hai tàu HQ16 và HQ 402 từ Vũng Tàu ra định phản kích chiếm lại đảo. Tuy nhiên, do chưa nắm rõ lực lượng ta, mặt khác, lúc này, trên đất liền, tuyến phòng thủ Phan Rang bị vỡ nên lực lượng đi ứng cứu này của quân đội Việt Nam Cộng hòa hết sức hoang mang, dao động, không dám tấn công mà quay về tăng cường phòng thủ đảo Nam Yết.
Sau khi giải phóng đảo Song Tử Tây, Bộ Tư lệnh tiền phương ở Đà Nẵng chỉ thị lực lượng canh phòng chặt chẽ, nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, bố trí lực lượng ở lại bảo vệ đảo. Các tàu chở hàng binh quân đội Việt Nam Cộng hòa và lực lượng còn lại về Đà Nẵng.
2 giờ 30 phút ngày 25/4/1975, tàu 641 chở lực lượng đánh chiếm đổ bộ lên đảo Sơn Ca và nổ súng tấn công. Sau 30 phút chiến đấu, lực lượng đổ bộ Quân Giải phóng miền Nam hoàn toàn làm chủ đảo Sơn Ca. Toàn bộ quân trên đảo bị bắt, ta thu 2 máy vô tuyến điện, 4 máy điện thoại, 2 xuồng máy, 1 máy nổ, 40 phuy xăng và toàn bộ vũ khí, đạn dược của chúng.
Lúc này, lực lượng của địch đóng trên các đảo còn lại hoang mang, dao động, mất tinh thần chiến đấu, đồng thời được lệnh rút ra tàu bảo vệ, chạy khỏi đảo. Chớp thời cơ này, Bộ Tư lệnh tiền phương chỉ thị cho đồng chí Mai Năng đang trên tàu 673 ở Song Tử Tây lập tức giải phóng các đảo còn lại. 1 giờ 30 phút ngày 27/4/1975, tàu 673 chở lực lượng đánh chiếm rời đảo Sơn Ca hướng về đảo Nam Yết. 10 giờ 30 phút cùng ngày, tàu 673 đến đảo Nam Yết. Một bộ phận của Phân đội 3 nhanh chóng đổ bộ chiếm giữ đảo. 11 giờ 30 phút ngày 27/ 4/1975, ta hoàn toàn làm chủ đảo Nam Yết. Sau khi chiếm đảo Nam Yết, tàu 673 tiếp tục đưa một bộ phận lực lượng đi chiếm đảo Sinh Tồn. 10 giờ 30 phút ngày 28/4/1975, do địch đã bỏ chạy nên ta làm chủ đảo Sinh Tồn. Ngày 29/4/1975, ta tiếp tục giải phóng đảo Trường Sa. Sau gần 20 ngày chuẩn bị và chiến đấu, phát huy khí thế tiến công thần tốc, táo bạo, lực lượng được cử đi giải phóng đảo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, giải phóng toàn bộ các đảo do Quân đội Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ ở quần đảo Trường Sa - phần hải đảo thiêng liêng thuộc chủ quyền của Việt Nam.