Đồng chí Võ Trung Thành - người suốt đời vì nước, vì dân
Nghiên cứu - Trao đổi 01/09/2024 09:07
Giữa năm 1942, cậu học sinh Võ Trung Thành rời ghế nhà trường ở Huế tham gia hoạt động trong phong trào công nhân hỏa xa Đà Lạt. Cuối năm 1943, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương Võ Trung Thành, trong vai thầy giáo trẻ về quê chỉ đạo Mặt trận Việt Minh và lấy ngôi nhà do ông bà để lại làm trường dạy chữ vừa dạy chữ, vừa tuyên truyền đường lối cách mạng cho hơn 20 thanh thiếu niên. Với lòng yêu nước nồng nàn và thương dân sâu sắc, Võ Trung Thành ngày đêm dồn tâm huyết đào tạo những thanh thiếu niên chân lấm tay bùn trở thành những hạt giống đỏ của Mặt trận Việt Minh, làm lực lượng xung kích vùng lên Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám 1945, giành chính quyền về tay Nhân dân ở Đức Phổ. Từ đây, tấm gương vì dân của thầy giáo Thành ngày càng thêm in đậm trong trái tim của hàng trăm thanh niên thôn Thủy Thạch rồi nhân rộng và lan tỏa ra nhiều địa phương khắp các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Nghĩa Bình,… là những địa phương mà đồng chí Võ Trung Thành suốt hơn 25 năm liên tục hoạt động, công tác, chiến đấu trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy và Chính ủy Mặt trận Trung Tây Nguyên, Quân khu 5.
“Tin yêu dân, dựa vào dân để cứu nước” và “Có lòng dân là có tất cả” đã trở thành bài học đầu đời của lớp trẻ, được đồng chí Võ Trung Thành trao truyền từ ngày đầu toàn quốc kháng chiến 19/12/1946. Để đề phòng và chống trả thắng lợi các cuộc đổ bộ của tàu thủy giặc Pháp càn quét, bắn giết đồng bào ta, cán bộ Việt Minh huyện Võ Trung Thành đã “3 cùng” với Dân, lắng nghe ý kiến các tầng lớp Nhân dân, và cùng Nhân dân đàm đạo tìm ra những sáng kiến độc đáo với ý chí “Toàn dân đánh giặc”, “Toàn dân cứu nước cứu nhà”, lấy vũ khí thô sơ đánh bại vũ khí hiện đại của giặc, bằng cách dựng một trụ bồ làm đài quan sát trên đỉnh núi Dâu. Cái bồ được đan bằng tre, sơn màu đỏ, có dây kéo từ thấp lên cao, báo hiệu mỗi khi tàu Pháp ngoài biển có âm mưu đổ bộ lên bờ. Nhờ đó mà Nhân dân các xã Phổ Cường, Phổ Khánh, Phổ Hiệp, Phổ Vinh kịp thời sơ tán và lực lượng dân quân du kích chủ động phục kích với những hầm chông, địa đạo, cung tre, bẫy đá,… Khi giặc vào làng thì “vườn không nhà trống”, khi giặc quay ra thì 4 phương 5 hướng đều xuất hiện Việt Minh từ dưới giao thông hào xông lên chống trả quyết liệt, đánh bại hai cuộc càn ác liệt của giặc.
Cuối năm 1954, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết, gia đình vợ con đồng chí Võ Trung Thành lên đường tập kết ra Bắc. Trong khi đó, với bí danh Năm Vinh, đồng chí được Đảng phân công bí mật ở lại miền Nam hoạt động. Trên cương vị Khu ủy viên Khu 5, suốt hơn 20 năm liên tục, đồng chí Năm Vinh bám trụ và có mặt ở những địa bàn vào thời điểm gian truân, khốc liệt nhất, ngày đêm sống hòa vào Dân, vừa chiến đấu diệt địch, vừa tham gia sản xuất để có lương thực phục vụ chiến trường, vừa xây dựng lớp lớp cơ sở cách mạng trong đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Trên cương vị Bí thư 3 tỉnh Tây Nguyên và Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Mặt trận Trung Tây Nguyên, Quân khu 5, đồng chí Năm Vinh luôn đặt lợi ích của Dân, của Đảng lên trên, lên trước, sẵn sàng đồng cam, cộng khổ với Dân, cùng ăn rau rừng thay cơm, ăn tro cỏ tranh thay muối, trèo đèo, vượt thác, ngủ cùng trong hang đá mỗi khi Đảng cần có Dân và Dân cần gần Đảng. Đồng chí Năm Vinh đã hi sinh mọi quyền lợi bản thân, gia đình, một lòng một dạ phục vụ cách mạng. Trong hơn 20 năm ấy, chỉ một lần tham gia đoàn đại biểu Đảng bộ Khu 5 ra Hà Nội dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng 1960, còn chưa một lần nào khác ra thăm gia đình vợ con ở miền Bắc. Tấm gương vì Dân của đồng chí Năm Vinh đã để lại trong lòng đồng bào các dân tộc thiểu số M’nông, Ê Đê, Xơ Đăng, Ba Na,… một tấm gương cao đẹp nhưng vô cùng bình dị, từ trong cuộc sống đời thường cũng như trong cuộc chiến ác liệt sống chết với quân thù. Ngay từ thời gian đầu, khi Luật 10/59 của chính quyền Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém đi khắp miền Nam, đến khi hàng vạn lính Mỹ và chư hầu ồ ạt tấn công lên Tây Nguyên và hàng trăm lượt B-52 rải thảm, hàng triệu lít chất độc hóa học da cam trút xuống đại ngàn Trường Sơn… thì đồng chí Năm Vinh vẫn được đồng bào chở che, bảo vệ an toàn. Không ít lần đồng chí đối diện trước bọn ác ôn thám báo, nhưng được sự cải trang “3 cùng” với Dân, nên địch không thể nào nhận ra một cán bộ Việt Cộng cao cấp nằm vùng đang ở ngay trước mặt chúng. Từ đó, trong mắt đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ cụ già đến em bé đều nhận thấy Năm Vinh vừa là một cán bộ Cụ Hồ quý mến, vừa là một người thân trong gia đình, nên đã suy tôn đồng chí bằng cái tên Ama Cha Vinh vô cùng thân thiết.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiều lần Trung ương dự định điều động đồng chí Năm Vinh về công tác ở Trung ương hoặc làm Bí thư một tỉnh, thành phố ở miền Trung. Nhưng theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ, chiến sĩ và đồng bào các dân tộc, đồng chí đã tự nguyện tiếp tục ở lại công tác, giúp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán, nhất là lớp trẻ trưởng thành nhanh chóng và vững chắc hơn. Mãi đến đầu năm 1982, khi sức khỏe giảm sút nhiều, Trung ương quyết định chuyển đồng chí về làm Bí thư Tỉnh ủy Nghĩa Bình (hai tỉnh Quảng Ngãi - Bình Định hợp nhất). Mặc dù sức khỏe giảm sút nặng, lại bị tái phát căn bệnh hiểm nghèo do hậu quả của chất độc hóa học da cam, đồng chí vẫn dồn hết tâm huyết, trí tuệ xây dựng Đảng bộ tỉnh nhà đổi mới, phát triển cho đến khi trút hơi thở cuối cùng vào tháng 7/1982.
Với 58 tuổi đời, hơn 40 năm liên tục hoạt động cách mạng, tấm gương suốt đời vì Dân của đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) vẫn ngày càng tỏa sáng. Đồng chí đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Thành đồng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Giải phóng hạng Nhất,... và được lãnh đạo các tỉnh Tây Nguyên - miền Trung - Quân khu 5 báo cáo, đề nghị Đảng, Nhà nước truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.