Có dấu hiệu oan sai, cần được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm
Pháp luật - Bạn đọc 10/06/2022 09:30
Nguyên nhân và lí do ông Nguyễn Văn Ngọc bị khởi tố
Ông Nguyễn Văn Ngọc (72 tuổi), ở thôn Hà Đông, xã Hải Hà, thị xã Nghi Sơn cho biết: Năm 2004, ông thành lập Công ty TNHH Ngọc Phúc, có chức năng tư vấn về đất đai. Tháng 7/2007, cơ quan chức năng ra quyết định thu hồi một phần đất thuộc xã Hải Hà để thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn. Thời điểm đó, theo báo cáo của Hội đồng xét duyệt nguồn gốc đất, xã Hải Hà có 49 ao, hồ ở thôn An Tây thuộc diện đất lấn chiếm, người dân chỉ được đền bù 70% tiền công đào đắp. Trong số 49 ao, hồ trên, có hồ của ông Lê Hữu Việt rộng hơn 10.000m2 và hồ của bà Mai Thị Liên rộng gần 6.000m2. Ông Việt, bà Liên thắc mắc khiếu nại cho rằng, ao hồ họ đào đắp sử dụng từ 1985-1993, nên theo quy định phải có tên trong bản đồ địa chính của xã và phải được đền bù khi bị thu hồi. Ông Mai Đình Lại cũng khiếu nại 9.000m2 đất ở, đất vườn đã có sổ đỏ bị thu hồi, nhưng Hội đồng kiểm kê lại áp giá đền bù là đất rừng 12.000 đồng/m2 (trong khi đất vườn giá đền bù 55.000 đồng/m2).
Các hộ dân đã bàn giao mặt bằng để xây dựng dự án từ tháng 7/2007, nhưng hơn 1 năm sau vẫn không được xem xét, giải quyết khiếu nại. Tháng 7/2008, họ nhờ ông Ngọc tư vấn để được xem xét hưởng quyền lợi theo quy định.
Qua tìm hiểu, ông Ngọc nhận thấy, luật pháp đã quy định rõ, ao hồ nếu chưa có sổ đỏ, nhưng có tên trong sổ mục kê và bản đồ địa chính thì cũng được hưởng đền bù khi Nhà nước thu hồi đất. Các hộ dân đã lên xã hỏi thông tin bản đồ địa chính, sổ mục kê, nhưng không được cung cấp. Theo nhận định của ông Ngọc, có thể cán bộ xã, huyện đã báo cáo không đúng với tỉnh.
Ông Ngọc trao đổi với PV về vụ án. |
Ông Ngọc lên xã hỏi hồ sơ địa chính có tên các hộ dân hay không, được trả lời đất không thuộc diện được đền bù, đã giải phóng mặt bằng. Ông Ngọc tiếp tục lên hỏi Phòng Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), thì được trả lời việc xét nguồn gốc đất do xã rà soát, đề xuất lên.
Sau đó, ông Ngọc làm văn bản đứng tên Công ty TNHH Ngọc Phúc đề nghị Văn phòng đăng kí đất đai (thuộc Sở TN&MT) cung cấp thông tin nhà đất. Bà Lê Thị Nhạn (Tổ trưởng tổ lưu trữ hồ sơ của Văn phòng) đã cung cấp thông tin cho ông Ngọc theo quy định.
Sau khi thu thập được sổ mục kê và bản đồ địa chính xã năm 1996, có đầy đủ thông tin đất đai liên quan đến các hộ dân; ông Ngọc thông báo với những người liên quan, được hứa, nếu được nhận tiền đền bù sẽ trả công ông Ngọc “một nửa hoặc một phần”. Các bên chỉ thỏa thuận miệng, không lập văn bản.
Tháng 7/2008, ông Ngọc giúp 3 khách hàng làm đơn khiếu nại gửi cấp xã, huyện, tỉnh kèm sổ mục kê, bản đồ địa chính thu thập được. Tháng 10/2008, Hội đồng xét duyệt nguồn gốc đất xã họp xem xét lại. Tháng 2/2009, các hộ dân được trả tiền đền bù bổ sung đúng theo quy định.
Thực hiện đúng lời hứa thưởng, bà Liên sau khi nhận được 360 triệu đồng tiền đền bù đã gọi ông Ngọc vào nhà đưa 180 triệu đồng, đúng dịp giỗ chồng bà. Việc bà Liên trả công cho ông Ngọc công khai, có nhiều người chứng kiến. Ông Việt, ngay khi nhận 620 triệu đền bù đã gọi ông Ngọc ra trả công 250 triệu đồng ngay tại sân UBND xã. Ông Lại sau khi nhận thêm được hơn 200 triệu đồng đền bù cũng gọi ông Ngọc vào nhà để trả 47,4 triệu đồng.
Khoảng 3 tháng sau, ngày 21/5/2009, ông Ngọc nhận được giấy mời lên làm việc của Công an huyện Tĩnh Gia, nhưng ông không có mặt vì bận việc. Vài ngày sau, Công an huyện tiếp tục mời ông Ngọc lên lần hai với câu hỏi: “Tại sao lại lấy của người dân nhiều tiền thế?”. Ông Ngọc trả lời: “Đó là tiền hứa thưởng, khách hàng tự nguyện trả tôi vì đã có công giúp đòi tiền đền bù bổ sung”.
Ngày 27/8/2009, Công an huyện Tĩnh Gia khởi tố vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, khởi tố bị can với ông Ngọc, sau đó bàn giao vụ án cho Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh Thanh Hóa để điều tra. Đến ngày 6/9/2009, ông Ngọc bị bắt.
Theo cáo buộc của Cơ quan điều tra, ông Ngọc “đã có hành vi lừa dối các hộ nói diện tích đất của họ không được đền bù, muốn được đền bù phải để Ngọc “chạy” mới được đền bù. Để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Ngọc yêu cầu các hộ viết giấy nhận nợ khống, lập hợp đồng gian dối, giả mạo chữ kí của bị hại để chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn”.
Chưa dừng lại, ngày 19/3/2010, Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh Thanh Hóa khởi tố bổ sung ông Ngọc tội “Môi giới hối lộ”. Cơ quan điều tra cho rằng, khoảng tháng 5/2005, ông Ngọc “nhận làm dịch vụ” 3 sổ đỏ chuyển đổi mục đích sử dụng đất của ông Lê Văn Luật (xã Hải Yên). Ông Luật viết đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất đưa Chủ tịch UBND xã kí, chuyển hồ sơ cho ông Ngọc cùng 80 triệu đồng. Ông Ngọc chuyển hồ sơ và 75 triệu cho ông Hoàng Văn Chúc (SN 1949, thị trấn Tĩnh Gia, đã mất). Ông Chúc gặp ông Vũ Đình Thám (SN 1948, cán bộ Phòng TN&MT) đưa hồ sơ và 54 triệu đồng nhờ làm.
Theo Kết luận điều tra của Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh Thanh Hóa: Thám khai Chúc đưa cho Thám 2 lần tiền tổng cộng là 6 triệu đồng. Căn cứ hồ sơ, tài liệu chứng minh Nguyễn Văn Ngọc đã nhận của ông Lê Văn Luật 80 triệu đồng, đưa cho Chúc 75 triệu đồng, Chúc đưa cho Thám 6 triệu đồng, còn lại không có cơ sở Chúc đưa cho Thám. Do vậy, Chúc chịu trách nhiệm số tiền 69 triệu đồng. Cũng theo Cơ quan điều tra, trong quá trình điều tra, Thám đã tự nguyện nộp 40 triệu đồng để khắc phục hậu quả, còn Chúc tự nguyện nộp 31,8 triệu đồng.
Ông Thám sau đó đã trình Chủ tịch UBND huyện Lê Minh Thông (đã mất) kí cấp 3 sổ đỏ chuyển mục đích sử dụng đất. Trong khi đó tỉnh đã có quy định không chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở tại Khu kinh tế Nghi Sơn.
Theo cáo trạng của Viện KSND huyện Tĩnh Gia, trong vụ án này, ông Luật “là người đưa ông Ngọc 3 bộ hồ sơ và 80 triệu đồng, do không hiểu biết pháp luật, sau khi làm xong 3 sổ đỏ đã tự giác đến Cơ quan điều tra tố cáo, nên không khởi tố hành vi đưa hối lộ, và trả lại 80 triệu đồng cho ông Luật”.
Ngày 21/7/2010, TAND huyện Tĩnh Gia mở phiên sơ thẩm vụ “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Nhận hối lộ” và “Môi giới hối lộ” nhưng phải hoãn vì vắng mặt nhân chứng, cần làm rõ chứng cứ buộc tội. Phiên sơ thẩm (lần 2) ngày 2/11/2010, tuyên ông Ngọc 9 năm tù (7 năm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 2 năm về tội “Môi giới hối lộ”); ông Hoàng Văn Chúc 15 tháng tù hưởng án treo về tội “Môi giới hối lộ”; ông Vũ Đình Thám 2 năm tù về tội “Nhận hối lộ”.
Ông Ngọc kháng cáo kêu oan. Ba người được cho là “bị hại trong vụ án” cũng kháng cáo khẳng định mình không phải là bị hại, đề nghị tuyên ông Ngọc không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ở chiều ngược lại, Viện KSND tỉnh Thanh Hóa kháng nghị đề nghị tăng nặng hình phạt với ông Ngọc.
Tại phiên tòa phúc phẩm ngày 12/1/2011, TAND tỉnh Thanh Hóa bác kháng cáo của các bị cáo và người liên quan, chấp nhận kháng nghị của Viện KSND tỉnh Thanh Hóa, tuyên phạt ông Ngọc 7 năm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 8 năm về tội “Môi giới hối lộ”, tổng hợp hình phạt là 15 năm tù.
Dấu hiệu oan sai?
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 21/7/2010, các hộ dân đều cho rằng mình không bị chiếm đoạt tài sản. Số tiền họ đưa cho ông Ngọc là hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, Tòa suy đoán và giải thích pháp luật rằng, họ (bị hại-PV) nhầm tưởng có công ông Ngọc “chạy”, mới được đền bù, để xét xử ông Ngọc. Còn Bản án phúc thẩm cho rằng: “Từ năm 2007-2009 là khoảng thời gian chờ đợi cấp có thẩm quyền xét duyệt chi trả bồi thường cho các hộ dân lấn chiếm đất, không có giấy tờ hợp pháp, Ngọc đã đến một số gia đình nói dối nếu không “chạy” sẽ không được đền bù”. Việc trên là hoàn toàn suy đoán, giải thích pháp luật không đúng bởi Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định về điều kiện được bồi thường đất là “phải có tên trong sổ đăng kí ruộng đất, sổ địa chính”. Trong khi các hộ dân được UBND xã cho rằng, đất của họ lấn chiếm không được đền bù, hỗ trợ. Các hộ dân xác định là đã nhờ và hứa nếu ông Ngọc “đòi” được đền bù, hỗ trợ, sẽ chia cho một nửa. Sau đó, các hộ dân mới tự nguyện cảm ơn ông Ngọc như họ đã hứa. Việc cảm ơn bằng tiền được công khai và nhiều người chứng kiến.
Đối với tội danh “Môi giới hối lộ”, ông Ngọc cho rằng, ông không phạm tội. Trong các phiên tòa xét xử, ông Ngọc đều khai, do không biết chủ trương của tỉnh Thanh Hóa thời điểm đó không cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở Khu kinh tế Nghi Sơn, nên đã nhận làm dịch vụ đối với 4 bìa đỏ cho ông Lê Văn Luận với giá 20 triệu đồng/sổ. Theo tính toán của ông Ngọc, số tiền nộp thuế, chuyển đổi mục đích… theo quy định là 18 triệu đồng/sổ. Ông Ngọc đã chuyển 75 triệu đồng cho ông Hoàng Văn Chúc để nộp tiền chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho 4 sổ của ông Luật. Ông Ngọc không biết ông Chúc đưa tiền cho ông Thám và cũng không nhờ ông Chúc đưa tiền cho ông Thám để chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho 4 sổ đỏ của ông Luật. Ông Thám tự viết bìa đỏ cho 3 hộ dân, nhưng không đề ngày, tháng, năm. Lợi dụng sơ hở thiếu kiểm tra, Thám đã đưa cho Chủ tịch UBND huyện Lê Minh Thông kí cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời ghi lùi lại thời gian cấp.
Ông Ngọc cũng cho rằng, Tòa án không áp dụng đối với ông Thám tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, mà lại áp dụng tội “Nhận hối lộ” là có lí do. Bởi, nếu áp dụng tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thì Chủ tịch UBND huyện Lê Minh Thông phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”….
Ông Lê Duy Vẽ, nguyên thẩm phán TAND huyện Tĩnh Gia, người 2 lần ngồi ghế chủ tọa xét xử sơ thẩm, tuyên ông Ngọc có tội, sau đó day dứt chia sẻ: “Tôi day dứt từ lúc tuyên xong bản án… Tôi day dứt nhất về việc kết án ông Ngọc phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đúng ra tôi nên tuyên ông Ngọc không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, vì không có bị hại… Bản thân tôi cũng không đồng tình với quyết định của mình, nhưng vì nhiệm vụ phải làm… Từ đó đến nay tôi luôn mong chờ sẽ có cơ quan nào đó có thể làm sáng tỏ việc này”.
Theo ông Lưu Bình Nhưỡng, Phó trưởng Ban Dân nguyện Quốc hội: Căn cứ theo hồ sơ, tài liệu mà ông Nguyễn Văn Ngọc cung cấp, cũng như lời “ăn năn” của thẩm phán Lê Duy Vẽ, người trực tiếp xét xử vụ ông Ngọc thừa nhận việc mình kết tội oan ông Ngọc, trong khi ông Ngọc không phạm tội cần được TAND Cấp cao xem xét làm rõ lại vụ án, tránh gây oan sai cho người vô tội, lấy lại niềm tin của người dân vào các cơ quan tố tụng.
Nên chăng, TAND Cấp cao tại Hà Nội cần công tâm xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với 2 bản án nêu trên. Bởi các kết luận điều tra, cáo trạng có dấu hiệu “hình sự hóa quan hệ dân sự”, thậm chí cố tình suy diễn theo hướng buộc tội, không theo nguyên tắc “suy đoán vô tội” dẫn đến bản án trên tuyên có dấu hiệu chưa đúng bản chất sự việc, gây oan sai cho ông Ngọc.