Tư tưởng đại đoàn kết các dân tộc qua thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku năm 1946

Năm 1946, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với vô vàn khó khăn thách thức: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Pháp chạy, Nhật hàng, quân Anh và Tưởng tràn vào nước ta, thù trong Giặc ngoài âm mưu bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ.
Tình thế cách mạng Việt Nam lúc này như “Ngàn cân treo sợi tóc”. Trong bối cảnh ấy, theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, “Đại hội các dân tộc thiểu số (DTTS) miền Nam tại Pleiku” đã được tổ chức vào tháng 4/1946. Do phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng đối phó với tình thế “nước sôi lửa bỏng” nên Hồ Chủ tịch không thể vào dự Đại hội, với tình cảm sâu sắc đối với các DTTS, Bác đã viết thư gửi tới Đại hội với lời lẽ động viên thiết tha, giục giã và khẳng định quyết tâm cùng nhau đoàn kết một lòng chiến thắng giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Dù cách trở khó khăn nhưng thư Bác (viết ngày 19/4/1946) đã đến kịp với Đại hội, được đọc lên cho tất cả đại biểu cùng nghe. Bức thư là tư tưởng bao trùm xuyên suốt của Người về đại đoàn kết các dân tộc ở Việt Nam, đã trở thành lời hiệu triệu khích lệ hàng triệu con tim quyết tâm bảo vệ đất nước: “Cùng các đồng bào DTTS! Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ. Tiếc vì đường sá xa xôi, tôi không đến dự hội được. Tôi tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào. Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các DTTS khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu dây liên lạc, hai là vì có kẻ xúi giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “Nha DTTS” để săn sóc cho tất cả các đồng bào. Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta. Xin chúc Đại hội thành công”.
Tư tưởng đại đoàn kết các dân tộc qua thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Phụ nữ các dân tộc.

Chỉ trên 300 chữ, với hình thức ngắn gọn, giản dị và quen thuộc, bức thư là văn bản đầu tiên về tư tưởng “Tộc người” của Bác, hàm chứa một nội dung phong phú, tình cảm sâu sâu sắc, lời động viên kịp thời và mạnh mẽ: “Lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào”, thể hiện quan điểm tư tưởng mang tính nền tảng của Người về công tác dân tộc ở nước ta là: Đoàn kết, bình đẳng, tương trợ. Nói đến công tác dân tộc là phải nói đến nguyên tắc đoàn kết. Đoàn kết là truyền thống lịch sử vốn có của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Người trân trọng và coi đó là truyền thống quý báu, là cái làm nên sức mạnh của dân tộc. Thư nhấn mạnh đến cội nguồn đoàn kết các dân tộc và tình cảm, sức mạnh Việt Nam: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các DTTS khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt: Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”. Thư chỉ ra tài sản quý giá: “Nước Việt Nam là nước chung của chúng ta”, để thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc cần có vai trò đại diện cho quyền lực của các dân tộc và quyền lực Nhà nước trong Quốc hội: “Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “Nha DTTS” để săn sóc cho tất cả các đồng bào”.

Đoàn kết không chỉ là vì các dân tộc phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội mà đoàn kết các dân tộc còn là vì dân tộc ta trong cách mạng giải phóng dân tộc luôn đứng trước những thử thách lớn lao của lịch sử và ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước với những thách thức về quản lí kinh tế, về giữ gìn và củng cố an ninh quốc phòng, vì vậy Thư xác định yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kêu gọi các dân tộc đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi gắm trong thư rất chân thành, sâu sắc và giàu sức thuyết phục. Cách lập luận của Bác đơn giản nhưng rất hùng hồn, lí lẽ như là sự thật hiển nhiên, là quy luật bất di bất dịch: “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”. Do các dân tộc ở nước ta với trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều, lại cư trú vừa phân tán, vừa xen kẽ nhau trên một địa bàn rộng lớn. Trong xã hội phong kiến và dưới chế độ thực dân, các dân tộc phát triển rất không đồng đều về kinh tế, đa dạng về phong tục tập quán, vì vậy Thư chỉ rõ quan điểm tương trợ giúp nhau nếu không có sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau thì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, việc rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, các dân tộc không chỉ gặp khó khăn mà còn mất một khoảng thời gian dài “phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta”. Trong thư, 5 lần Bác nhắc đến từ “đồng bào”. Mỗi lần nhắc lại từ “đồng bào” chính là Bác thêm một lần nhắc đến nguồn gốc các dân tộc Việt Nam, qua đó kêu gọi quyết tâm giữ vững tình đoàn kết. Nội dung cuối cùng kết thúc bức thư là sự xác lập một quyết tâm sắt đá: “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”.

Thấm nhuần tư tưởng về đại đoàn kết các dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư Bác gửi Đại hội các DTTS miền Nam tại Pleiku. Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam, đồng bào các DTTS đã luôn cùng đồng bào cả nước một lòng thủy chung son sắt theo Đảng và Bác Hồ, cống hiến công sức, máu xương cho sự nghiệp chung, giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Trong sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành và đồng bào trong cả nước, đặc biệt là từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc với quan điểm “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vùng dân tộc và miền núi đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng thể hiện trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Việc thực hiện công tác dân tộc đã được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, hội tụ được tình cảm và sự giúp đỡ, trách nhiệm của Nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế. Vùng dân tộc và miền núi có nhiều tiến bộ, thay đổi rõ rệt, to lớn từ việc xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động cho đến việc phát triển các mặt kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, bảo đảm an ninh. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào từng bước được cải thiện; công tác bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa truyên thống của các dân tộc được coi trọng. Hệ thống chính trị các cấp được củng cố, tổ chức cơ sở đảng, các đoàn thể Nhân dân được kiện toàn; đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ DTTS đã có những bước trưởng thành.

Tuy nhiên vùng dân tộc, miền núi vẫn là vùng kinh tế chậm phát triển, đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Thu nhập và đời sống giữa đồng bào DTTS với thu nhập và mức sống chung của xã hội tiếp tục có khoảng cách. Những vấn đề bức xúc về đất ở, đất sản xuất, di cư tự do, tàng trữ, buôn bán, sử dụng các chất ma tuý, buôn bán người… diễn biến phức tạp, chưa được giải quyết triệt để. Việc đầu tư cho vùng dân tộc, miền núi dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm, một số địa phương hiệu quả thấp. Các thế lực thù địch đang lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc, các yếu kém bất cập của ta về kinh tế, xã hội để kích động, tuyên truyền lôi kéo đồng bào DTTS hòng chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc và gây mất ổn định ở các vùng DTTS, đặc biệt là ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Hệ thống chính trị cơ sở, trình độ, năng lực của cán bộ cơ sở là người DTTS còn những mặt hạn chế, bất cập, trình độ dân trí thấp đã ảnh hưởng đến việc thực hiện tư tưởng về đại đoàn kết các dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vùng dân tộc, miền núi.

Để tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết các dân tộc trở thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội của các DTTS trong thời kì đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới hiện nay, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tập trung quán triệt và thực hiện tốt những nội dung, nhiệm vụ và giải pháp sau đây về công tác dân tộc:

- Nhận thức đầy đủ vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc và công tác dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đó là một bộ phận quan trọng của công tác cách mạng, là bộ phận cấu thành của sự nghiệp cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo.

- Đổi mới công tác dân tộc cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng hiện nay, tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, khai thác tiềm năng, thế mạnh của vùng đồng bào DTTS và miền núi, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, quan tâm đầy đủ, đúng mức tới các dân tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tập trung đổi mới các hoạt động sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ đối với vùng dân tộc và miền núi phù hợp với đặc điểm, điều kiện đặc thù của từng vùng miền.

- Giữ vững mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng và Nhân dân các dân tộc, tăng cường củng cố tình đoàn kết các dân tộc; xây dựng, bồi dưỡng, phát huy vai trò của người có uy tín ở cộng đồng dân cư, trong công tác vận động đồng bào xây dựng quy ước, hương ước, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường công tác giám sát tại cộng đồng, góp phần tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh.

- Củng cố hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người DTTS, tăng cường cán bộ cho cơ sở, kiện toàn củng cố tổ chức, bộ máy, biên chế các cơ quan làm công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương.

- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh Nhân dân, vận động đồng bào các DTTS vùng biên giới thực hiện tốt mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, giữ vững chủ quyền lãnh thổ; tham gia xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng anh em; đề cao cảnh giác, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, kích động và các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, xã hộin

Vũ Dương Châu
Phó trưởng Ban Chăm sóc NCT

Tin liên quan

Ý kiến bạn đọc

* Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Cùng chuyên mục

Những chủ bút đầu tiên của các tờ báo cách mạng Việt Nam

Những chủ bút đầu tiên của các tờ báo cách mạng Việt Nam

Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng ta đã sử dụng báo chí như một thứ vũ khí sắc bén và lợi hại để đấu tranh với kẻ thù xâm lược. Những tờ báo cách mạng đã góp phần đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi hết thắng lợi nầy đến thắng lợi khác. Nhân kỉ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2025), chúng ta cùng nhìn lại chặng đường hình thành và phát triển các tờ báo tiền thân của Đảng...
Duyên nợ với nghề báo bắt đầu từ... thơ

Duyên nợ với nghề báo bắt đầu từ... thơ

Nhà thơ Tố Hữu đã dịch bài thơ “Đợi anh về” của nhà thơ Konstantin Simonov vào năm 1947 và phổ biến rộng rãi tại Việt Nam. Nhưng không chỉ là nhà thơ nổi tiếng, Simonov còn là một phóng viên mặt trận ưu tú của đất nước Xô viết.
Kì vọng chọn đúng cán bộ đủ tầm cho chính quyền địa phương sau khi sắp xếp

Kì vọng chọn đúng cán bộ đủ tầm cho chính quyền địa phương sau khi sắp xếp

Việc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính, chuyển sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh, cấp xã) từ ngày 1/7/2025, đòi hỏi cán bộ có năng lực vượt trội, trách nhiệm cao, tư duy đột phá và sáng tạo.
Vững tiến tăng tốc vào kỉ nguyên vươn mình của dân tộc

Vững tiến tăng tốc vào kỉ nguyên vươn mình của dân tộc

Trong các bài viết, phát biểu tại các diễn đàn, hội nghị trong nước và quốc tế gần đây, Tổng Bí thư Tô Lâm luôn nhấn mạnh đến kỉ nguyên mới - kỉ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch đã công kích, xuyên tạc, chống phá...
Thi đua là động lực phát triển và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa

Thi đua là động lực phát triển và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa

Ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”. Lời kêu gọi này của Người đã được toàn dân hưởng ứng, tạo thành một sức mạnh to lớn để dân tộc ta vượt qua những khó khăn và giành thắng lợi trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Tin khác

Cần, kiệm, liêm, chính để xây dựng chủ nghĩa xã hội

Cần, kiệm, liêm, chính để xây dựng chủ nghĩa xã hội
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa là con người có đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ Nhân dân, phục vụ cách mạng”. Trong bài “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Những phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” mà Người dạy không chỉ là lí tưởng để mỗi cán bộ, đảng viên noi theo mà còn trở thành chuẩn mực cho mọi người hướng tới”.

Những căn cứ khoa học nghiên cứu 3 ngôi mộ cổ ở Tam Kỳ

Những căn cứ khoa học nghiên cứu 3 ngôi mộ cổ ở Tam Kỳ
Bài 3: Giải mã mộ Giày Thầy Lánh, mộ 1856 Phan Thị, mộ 1850 là mộ vợ chồng thay tên đổi họ, chờ kết quả khảo cổ

Người cao tuổi mãi là cây đại thụ dựng xây cơ đồ dân tộc cường thịnh

Người cao tuổi mãi là cây đại thụ dựng xây cơ đồ dân tộc cường thịnh
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là bản thiên anh hùng ca bất diệt cho ý chí tự lực, tự cường dân tộc, trọn cuộc đời hiến dâng cả tuổi thanh xuân và tuổi già cho Tổ quốc và Nhân dân.

Tình trạng lạm dụng NCT

Tình trạng lạm dụng NCT
Các loại lạm dụng NCT thường gặp bao gồm lạm dụng về thể chất, lạm dụng về tâm lí và lạm dụng về tài chính. Mỗi loại lạm dụng NCT có thể là cố ý hoặc vô ý. Lạm dụng thể chất là việc sử dụng vũ lực dẫn tới tổn thương hoặc khó chịu về thể chất hoặc tâm lí.

Những căn cứ khoa học nghiên cứu 3 ngôi mộ cổ ở Tam Kỳ

Những căn cứ khoa học nghiên cứu 3 ngôi mộ cổ ở Tam Kỳ
Bài 2: Mộ 1850 là hài cốt người phụ nữ cải táng từ miền Bắc, xác định mối quan hệ mộ vợ chồng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương

Những căn cứ khoa học nghiên cứu 3 ngôi mộ cổ ở Tam Kỳ

Những căn cứ khoa học nghiên cứu 3 ngôi mộ cổ ở Tam Kỳ
Bài 1: Xác định mối quan hệ mộ vợ chồng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương

Vài suy nghĩ về Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá hiện nay

Vài suy nghĩ về Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá hiện nay
Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá có hiệu lực thi hành đã 13 năm (2012-2025). Tuy vậy hiệu quả của nó rất khiêm tốn. Thuốc lá vẫn bán tràn lan, người hút thuốc nơi công cộng kể cả trẻ em, học sinh phổ thông vẫn xảy ra. Các bệnh tật liên quan tới thuốc lá vẫn làm cho hàng chục triệu người khác bị ảnh hưởng.

Kì vọng chọn đúng cán bộ đủ tầm cho chính quyền địa phương 2 cấp

Kì vọng chọn đúng cán bộ đủ tầm cho chính quyền địa phương 2 cấp
Việc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính, chuyển sang mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh, cấp xã) từ ngày 1/7/2025, đòi hỏi cán bộ có năng lực vượt trội, trách nhiệm cao, tư duy đột phá và sáng tạo.

Rào cản trong tiến hành các cuộc cách mạng

Rào cản trong tiến hành các cuộc cách mạng
Bài 5: Trọng trách người đứng đầu trong thời điểm độ trễ của pháp luật

Cảnh giác với những luận điệu chống phá chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy

Cảnh giác với những luận điệu chống phá chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy
Tinh gọn tổ chức bộ máy là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, đang được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, bước đầu mang lại hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch liên tục đưa ra những luận điệu xuyên tạc, thông tin giả chống phá Đảng, Nhà nước, gây hoang mang, chia rẽ dư luận...

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ môi trường và ý nghĩa trong phát triển bền vững giai đoạn hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu trong bảo vệ môi trường. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăm lo môi trường sống và thường xuyên kêu gọi Nhân dân gìn giữ thiên nhiên để “con đường từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản thêm xanh tươi”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh - những khát vọng của dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh - những khát vọng của dân tộc
Hình ảnh “Anh hùng giải phóng dân tộc” và “Danh nhân văn hóa” đã hòa quyện tạo nên một nét riêng độc đáo ở Hồ Chí Minh không chỉ trong quá khứ, mà đang sống với hiện tại và sẽ tiếp tục tỏa sáng trong nền văn hóa tương lai.

Rào cản trong tiến hành các cuộc cách mạng

Rào cản trong tiến hành các cuộc cách mạng
Bài 4: Rào cản trong chuyển đổi số

Chủ tịch Hội NCT xã nên là NCT, làm chuyên trách sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy

Chủ tịch Hội NCT xã nên là NCT, làm chuyên trách sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy
Bài phát biểu của TS Trương Xuân Cừ, Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội NCT Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa XV tại nghị trường Quốc hội vừa qua đã liên tục nhận được sự ưởng ứng tích cực của cán bộ, hội viên NCT cả nước. “NCT luôn phát huy truyền thống 741 năm Hào khí Diên Hồng, 84 năm Lời kêu gọi Phụ lão cứu quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kỉ nguyên mới, NCT cũng có trách nhiệm, mong muốn tiếp tục cống hiến. Tôi và NCT cả nước tha thiết trân trọng đề nghị, chính quyền địa phương cấp xã nên có Chủ tịch Hội NCT là NCT để tham mưu cho cấp ủy tập hợp NCT tham gia các hoạt động…”, Phó Chủ tịch Trương Xuân Cừ đề nghị. Tạp chí Người cao tuổi trân trọng ghi lại những tâm tư, nguyện vọng và chia sẻ của cán bộ, hội viên, NCT cả nước về nội dung trên…

Rào cản trong tiến hành các cuộc cách mạng

Rào cản trong tiến hành các cuộc cách mạng
Bài 3: Những câu chuyện thực tiễn cần tư duy mới trong xây dựng pháp luật
Xem thêm
Phiên bản di động