Từ lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nghiên cứu - Trao đổi 18/12/2024 10:25
Tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta là: “Động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến”. Từ đó, việc củng cố tăng cường các đoàn thể quần chúng Nhân dân, quân sự hóa toàn dân đã thực hiện nhanh chóng trong cả nước từ miền núi đến đồng bằng; từ nông thôn đến thành phố. Như vậy, trước khi bước vào cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp, không chỉ có các lực lượng vũ trang mà toàn thể các tầng lớp Nhân dân đã sẵn sàng. Vì vậy, thế trận của ta những ngày đầu kháng chiến toàn quốc là thế trận của chiến tranh Nhân dân, toàn dân đánh giặc. Những ngày đầu tiên chiến đấu, dù ở Thủ đô Hà Nội là chiến trường chính, tiêu biểu của kháng chiến toàn quốc; hay ở Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang,… trực tiếp chiến đấu, đương đầu với kẻ thù còn có lực lượng đông đảo quần chúng từ em bé đến cụ già, từ người dân nghèo thành thị, nông dân, công nhân đến các học sinh, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ… Bằng mọi hình thức, biện pháp tất cả đều đã thực hiện tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch theo khả năng của mình và của tổ chức mình. Các việc thu mua, nấu ăn, tiếp tế, cứu thương, tải thương do chị em phụ nữ đủ mọi lứa tuổi đảm nhận…
Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Ảnh tư liệu |
Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, xen kẽ tiếng súng diệt địch ở các chiến trường là tiếng loa làm công tác địch vận bằng các thứ tiếng nước ngoài vang lên trong cả nước. Các tầng lớp Nhân dân ở những nơi chưa nổ ra chiến sự đều được phổ biến, quán triệt lời kêu gọi của Bác Hồ, đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng với khẩu hiệu cụ thể, sâu rộng nổi bật: “Mỗi phố là một pháo đài”. Khẩu hiệu: “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” xuất hiện khắp nơi trong cả nước. Khắp mọi nơi, nông dân thu hoạch nhanh chóng lúa, hoa màu; thu hái đến dâu thực hiện phơi khô, quạt sạch đến đó, đổ vào bồ cất giấu đề phòng giặc đến cướp, đốt. Các con sông lớn ở khắp cả nước đều được Nhân dân làm kè, đóng cọc, xây dựng hàng rào cản trở để làm vật cản ngăn chặn ca nô, tàu chiến địch. Tre, nứa, vầu được vót nhọn cắm ở nơi đồng ruộng, bãi trống để chống thực dân Pháp nhảy dù đổ bộ xuống. Thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ, các tầng lớp Nhân dân đêm đêm nô nức kéo nhau ra các quốc lộ lớn, đường lớn liên tỉnh, liên huyện để đào cắt, xẻ ngang hàng trăm đoạn đường; nhiều cầu, cống bị đánh sập, không cho địch đi qua. Vừa thực hiện phá hoại giao thông, những nơi địch có thể nhảy dù và có thể đóng quân, các tầng lớp Nhân dân còn sử dụng nhiều biện pháp làm tê liệt những cơ sở sản xuất, dịch vụ mà địch có thể sử dụng. Công nhân mỏ Uông Bí, Mạo Khê, Thái Nguyên… đã đánh sập hầm lò, tháo dỡ máy móc, thiết bị và lấy các dụng cụ đem đi. Quân và dân ta đã phá xưởng đúc kẽm ở Quảng Yên, phá các đầu máy, các thiết bị xe lửa ở Đông Anh, Gia Lâm, Trường Thi, Huế, Đà Nẵng… các nhà máy rượu ở Nam Định, Hải Dương, nhiều cơ sở xưởng ở Hải Phòng. Mới sau năm ngày đầu kháng chiến, chỉ tính riêng ở Bắc Bộ ta đã phá sập hầu hết hầm mỏ, chuyển máy móc, thiết bị không để rơi vào tay địch.
Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, theo số liệu các tầng lớp Nhân dân đã phá 1.640 km đường sắt, 5.640 km đường ô tô, 30.500 cầu, cống; 59.100 nhà cửa, 84 đầu máy và 868 toa xe lửa… ở những vùng có chiến sự Nhân dân ta còn thực hiện triệt để chủ trương đi tản cư, di chuyển máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu ra vùng tự do, góp phần xây dựng nền kinh tế kháng chiến.
Cuộc tổng di chuyển lịch sử này các tầng lớp Nhân dân cả nước đã tập trung di chuyển ra vùng tự do, căn cứ kháng chiến hàng chục tấn gạo, 6 ngàn tấn muối, hơn 4 vạn tấn máy móc, thiết bị, thành lập mới 168 công binh xưởng sản xuất vũ khí, cùng hàng ngàn tổ sản xuất, sửa chữa vũ khí thô sơ ở các địa phương cả nước. Từ tháng 12/1946 cho đến mùa Hè năm 1947, các công binh xưởng trong cả nước đã sản xuất được 2.000.000 các loại: súng, mìn, lựu đạn, bom kịp thời cung cấp cho các lực lượng vũ trang dùng đánh giặc ở các chiến trường. Thực hiện lời kêu gọi “Tản cư cũng là kháng chiến”, đã có hàng triệu người triệt để thực hiện đi sơ tán, thực hiện “vườn không, nhà trống” hi sinh ruộng vườn, tài sản không chịu cung cấp, hợp tác với địch.
Do nhờ phát động được cuộc chiến tranh Nhân dân, toàn dân, toàn diện nên ngay từ những ngày đầu kháng chiền, thế và lực của ta không những bị tiêu hao mà ngày càng lớn mạnh lên. Đến đầu mùa Hè năm 1947, có thêm 1 triệu người tham gia dân quân, tự vệ; lực lượng bộ đội chủ lực từ 82.000 cán bộ, chiến sĩ đã phát triển lên 120.000 người. Với quyết tâm cao, niềm tin vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện đã chứng tỏ: “Dân tộc Việt Nam thà chết chứ không chịu mất độc lập, tự do”. Đó chính là nguyên nhân quan trọng, quyết định bảo đảm chắc chắn cho cuộc kháng chiến thắng lợi, đúng như Bác Hồ đã khẳng định khi trả lời các nhà báo vào ngày 2/1/1947: “Hễ một dân tộc đã đứng lên kiên quyết đấu tranh cho Tổ quốc họ thì không ai, không lực lượng gì có thể chiến thắng được họ”. Và thực tế dân tộc Việt Nam đã chiến thắng thực dân Pháp bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954, “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.