Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn

Quốc Tử Giám là nơi các Nho sinh, sĩ phu nước ta từ đầu thế kỉ thứ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX làm giàu học vấn. Đây chính là cơ quan quản lí giáo dục triều Nguyễn và là học phủ tối cao của triều đại phong kiến cuối cùng này…

Cơ quan quản lí giáo dục triều Nguyễn

Tháng 8/1803, Hoàng đế Gia Long thành lập Đốc Học Đường tại địa phận An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách Kinh thành Huế chừng 5km về phía Tây. Sau khi xây xong Đốc Học Đường, Hoàng đế Gia Long chọn Phan Ưng Đăng làm Đốc học chính đường, Nguyễn Viết Ưng làm Đốc học Giáp phó đường, Trương Chi Lý làm Đốc học Ất phó đường.

Nhu cầu đào tạo nhân tài ngày càng tăng nên tháng 3/1820, Hoàng đế Minh Mạng đổi tên trường thành Quốc Tử Giám. Hoàng đế Minh Mạng đã nói về việc này như sau: “Trường học là nơi các hiền tài ganh đua, nước nhà phần nhiều lấy nhân tài từ nơi ấy. Ngày xưa Tiên đế lập nên Trường Quốc Tử Giám, đặt ra các học quan, định ra phép tắc, muốn gây nên nhân tài để nước nhà dùng. Trẫm noi theo chí lớn của Tiên đế muốn ra lệnh dựng nên nhà học, tăng thêm học viên, lập nhiều học bổng, mở rộng chương trình khiến học trò đều được thông tài để đợi khi lấy dụng”.

Quốc Tử Giám ở Huế.
Quốc Tử Giám ở Huế.

Đến năm 1821, Hoàng đế Minh Mạng đổi chánh phó Đốc học thành 1 Tế tửu và 2 Tư nghiệp. Tế tửu giữ học chính, đào tạo nhân tài để giúp chính trị, văn hóa còn tư nghiệp có nhiệm vụ giúp đỡ học chính.

Để công việc quản lí Quốc Tử Giám chặt chẽ hơn, năm 1838, Hoàng đế Minh Mạng đặc cử các đại thần kiêm lãnh thêm công việc của trường: “Cho Hiệp biện đại học sĩ Lê Văn Đức, Trương Đăng Quế kiêm lãnh công việc Quốc Tử Giám, hai người này thay phiên nhau làm. Tháng chẵn do Lê Văn Đức kiêm lãnh. Tháng lẻ do Trương Đăng Quế kiêm lãnh”.

Vào thời Hoàng đế Duy Tân, nhận thấy Trường Quốc Tử Giám ở quá xa Kinh thành, có nhiều điểm bất tiện nên năm 1908 đã cho dời trường về phía Đông Nam của Hoàng thành.

Trường Quốc Tử Giám mới chiếm một vùng đất khá rộng lớn bên trong Kinh thành. Quy mô của trường lúc ấy gồm có: Chính giữa là Di Luân Đường; hai bên là hai dãy phòng học; trước mặt là hai dãy cư xá của người học; phía sau trường, ở giữa là tòa Tân Thơ Viện, hai bên là nhà ở của quan Tế tửu, Tư nghiệp và các viên chức khác của trường.

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn
Trường Quốc Tử Giám Huế được thành lập năm 1803 dưới thời vua Gia Long

“Cái nôi” của nhân tài triều Nguyễn

Lúc đầu Trường Quốc Tử Giám chỉ tuyển chọn học sinh từ con em tôn thất, con quan đại thần trong triều. Tôn nhân phủ chọn trong họ tôn thất (từ ba đời trở xuống) lấy 60 người đã đến 28 tuổi mà thông minh đĩnh ngộ cho dự tuyển vào trường. Nếu vuợt qua cuộc sát hạch những người này sẽ trở thành các tôn sinh của trường. Còn con của quan tứ phẩm trở lên và con truởng của quan ngũ phẩm (tuổi đã được 15) thì được giới thiệu vào học tại trường. Đó gọi là các ấm sinh.

Quốc Tử Giám với việc đào tạo nhân tài cả nước dưới triều Nguyễn
Chiêm ngưỡng nét đẹp rêu phong 32 tấm bia khắc tên 293 tiến sĩ triều Nguyễn

Đến năm 1822, Hoàng đế Minh Mạng cho Quốc Tử Giám tuyển chọn trong các sĩ tử đậu cao lấy 100 người bổ dụng làm giám sinh. Cũng năm này, Hoàng đế Minh Mạng xuống chiếu trong cả nước cho phép một huyện được giới thiệu một người để vào học tại trường. Đó gọi là các cống sinh. Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838), Hoàng đế còn cho phép không kể con em thổ quan hay con em nhà dân, cũng không cứ học đủ văn thí ba trường, hễ ai là người tuấn tú thông minh thì chọn ra để đưa về trường học tập.

Hằng năm cứ đầu Xuân, sau ngày khai Ấn một ngày thì Quốc Tử Giám khai giảng. Cuối năm sau ngày xếp Ấn một ngày thì nghỉ giảng. Thời khóa biểu: Ngày lẻ giảng kinh truyện, ngày chẵn giảng chính sử. Đầu tiên học sinh được học Trung kinh, Hiếu kinh, rồi sau đó học đến Ngũ kinh và Tứ truyện. Tiếp đó học đến sách Chu Tử và Chu sử. Về mặt văn bài, học sinh dần dần tập làm theo “thể tứ trường”, bắt đầu từ câu đối, thơ, phú lên kinh nghĩa, chiếu, biểu cuối cùng là sách văn (tức là các thể văn phải làm trong kì thi quốc gia: Hương, Hội, Đình). Ngoài ra các học sinh còn phải làm bài tập kiểm tra hằng tháng (4-6 lần/tháng), được kiểm tra hằng quý (mỗi quý một lần) và khảo hạch hằng năm.

Quốc Tử Giám có một chế độ học bổng và thưởng phạt rất công minh. Hoàng đế Minh Mạng đã từng nói rằng: “Quốc Tử Giám là nơi giáo dục nhân tài. Triều đình nuôi học trò, nên ưu đãi khiến cho nhân tài đều vui vẻ tu nghiệp tiến đức”. Học bổng của trường (tiền, gạo, dầu thắp) do đó được xét dựa trên kết quả khảo ngạch hằng quý: Tôn sinh mỗi người mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương; cử nhân, cống sinh hạng ưu thì tiền 5 quan, gạo 3 phương, dầu ăn 5 cân, hạng bình thì tiền 3 quan, dầu 3 cân; ấm sinh hạng nhất thì thì tiền 1 quan 5, gạo 1 phương rưỡi, dầu 2 cân rưỡi, hạng thứ thì tiền 1 quan, gạo 1 phương, dầu 2 cân, nếu năm nào là năm nhuận thì theo tháng trước mà cấp. Về thưởng phạt thì học sinh nào: Khóa trước ưu khóa này lại ưu thì cấp lương theo hạng ưu, thì được thưởng thêm tiền 1 quan, gạo 1 phương. Trước ưu sau bình thì cấp theo loại bình. Trước thứ sau thứ thì chiếu theo thứ nhưng giảm 1 nửa.

Trường Quốc Tử Giám mang lối kiến trúc đặc biệt, đậm nét phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn (
Trường Quốc Tử Giám mang lối kiến trúc đặc biệt, đậm nét phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn

Quốc Tử Giám là một minh chứng về tinh thần hiếu học và trọng dụng hiền tài của dân tộc. Với gần 150 năm tồn tại, trường đã góp phần không nhỏ trong việc đào tạo những nhân tài cho đất nước. Trong số hơn 500 vị tiến sĩ, phó bảng của triều Nguyễn, có không ít vị đã từng dùi mài kinh sử tại ngôi trường này. Có thể kể đến hai nhân vật nổi bật là Đặng Huy Trứ (1825-1874) và Nguyễn Khuyến (1833-1909).

Tuy nhiên, đến năm 1909, khi khoa thi chữ Hán cuối cùng chấm dứt thì vai trò giáo dục của Quốc Tử Giám không còn nữa. Nó phải nhường chỗ cho trường Quốc Học, ngôi trường do thực dân Pháp xây dựng với nội dung giảng dạy theo lối Tây học phù hợp hơn với tình hình lúc đó.

Nguyễn Văn Toàn

Tin liên quan

Tin khác

Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc

Tri ân những nhà giáo hi sinh vì Tổ quốc
Liệt sĩ nhà giáo có ở hầu hết các vùng, miền của Tổ quốc. Theo thống kê vào năm 2012, trong ngành Giáo dục có 2.219 liệt sĩ nhà giáo. Riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có hơn 4.000 nhà giáo trên khắp mọi miền đất nước đã lên đường vào miền Nam vừa dạy học, vừa cầm súng chiến đấu và đã có 621 nhà giáo đã anh dũng hi sinh.

Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam

Đại đoàn kết - Sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng bậc nhất, là cội nguồn sức mạnh để đất nước vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, vượt qua thiên tai dịch bệnh để vững bước tiến lên...

Đạo thầy trò

Đạo thầy trò
Xã hội nào nghề giáo cũng luôn được đánh giá là nghề cao quý nhất và người thầy giáo luôn có vị thế quan trọng. Câu ca dao có từ ngàn xưa: Mồng một tết cha, mồng Hai tết mẹ, mồng Ba tết thầy là nét văn hóa về cách sống, cư xử mà ông cha ta muốn nhắc nhở con cháu.

Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ

Ba người thầy góp phần hun đúc hoài bão vĩ đại của Bác Hồ
Ngày 5/6/1911, anh Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Để có được hoài bão vĩ đại này, vai trò của thầy Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), thầy Vương Thúc Qúy (1862-1907), thầy Lê Văn Miến (1874-1943) đối với Người rất quan trọng.

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”

Vinh quang sự nghiệp “Trồng người”
Trong xã hội Việt Nam, người thầy có vị trí đặc biệt, nghề dạy học được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Sinh con và nuôi dưỡng con cái là công ơn trời bể của cha mẹ, nhưng dạy trẻ chóng lớn để trở thành người không chỉ biết chữ mà còn có phẩm cách tốt đẹp, gắn tình yêu thương trong gia đình với tình yêu nước là công lao to lớn của người thầy...

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” viết cho báo Sự thật (Pravda) của Liên Xô số ra ngày 1/11/1967, nhân kỉ niệm lần thứ 50 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, Nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của Nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại… là vô cùng sâu sắc”...

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước

Bác Hồ trên quê hương Lê-nin, tìm đường cứu nước
Tháng Giêng năm 1924, từ Pa ris đến Mátxcơva, Bác Hồ vào viếng linh cữu Lênin, người bạn vĩ đại của Nhân dân các nước thuộc địa.

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng đoàn kết quân dân - một di sản quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ ngày thành lập đến nay, Quân đội ta ngày càng trưởng thành, đội ngũ ngày càng vững mạnh, là đội quân tiên phong luôn giương cao ngọn cờ “Bách chiến bách thắng”. Một trong những yếu tố tạo nên điều kì diệu đó chính là thực hiện tốt mối quan hệ cá nước, máu thịt đoàn kết quân-dân.

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển

Tự hào con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Ngược dòng thời gian, 63 năm đã đi qua, kể từ ngày “Đường Hồ Chí Minh trên biển” chính thức đi vào hoạt động và lập nên nhiều kì tích của một con đường huyền thoại, khẳng định bước phát triển mới của nghệ thuật chiến tranh Nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Trong đó, quê hương Bến Tre tự hào là nơi “khai sơn, phá thạch” với những con người đầu tiên rẽ sóng, mở ra con đường huyền thoại đó…

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Tính thời sự của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” trong công tác xây dựng Đảng hiện nay
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời vào tháng 10/1947, với bút danh X.Y.Z. Đây là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền, là “cẩm nang” cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng vào xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng

Tầm nhìn tương lai của trẻ em gái - Nhận thức từ gia đình và cộng đồng
Cùng với Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3) dành để tôn vinh người phụ nữ, Ngày Quốc tế trẻ em gái (11/10) được kỉ niệm để nêu bật vai trò quan trọng của một nửa thế giới, kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực để bảo đảm tương lai của các em, phát huy sức mạnh của các trẻ em gái trong quá trình xây dựng một thế giới bền vững…

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước

Phát triển đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi”.

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”

Thiêng liêng hai tiếng “Đảng ta”
Đó là tiếng nói của Nhân dân ta dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai tiếng mộc mạc, ngắn gọn mà hàm chứa cả nhận thức sâu sắc qua thực tiễn và tình cảm sâu đậm của trái tim hàng chục triệu người Việt Nam…

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ

Phải luôn học tập và làm theo đạo đức tiết kiệm của Bác Hồ
Trong suốt cuộc đời mưu sống và hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như làm phụ bếp trên tầu buôn, làm thợ sửa ảnh, sống bất hợp pháp ở một nước tư bản, hoạt động cách mạng bí mật trong nước cho đến khi làm chủ tịch nước ta, Bác Hồ vẫn giữ nếp sống như khi còn khó khăn, thiếu thốn...

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới

Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc xây dựng đời sống mới
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lời Các Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi” và lời V.I.Lênin: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công”. Kết quả phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Xem thêm
Phiên bản di động