Người cao tuổi đề nghị bác kháng cáo vì nhiều dấu hiệu khuất tất
Pháp luật - Bạn đọc 26/11/2024 17:16
Những nội dung kiến nghị
Trước khi phiên tòa phúc thẩm được mở, Nguyên đơn - ông Lê Văn Ngọc tiếp tục có đơn kiến nghị cần bác đơn kháng cáo của bị đơn Đoàn Minh Đức và ông Đoàn Hữu Hạnh, với nội dung:
“Một, việc đã từng xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) 295m2 thửa số 468 tại ấp 3, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức (nay là phường Hiệp Bình Phước, TP Thủ Đức), TP Hồ Chí Minh cho tôi là có cơ sở.
2 Văn bản: 194/TS-TTLT và 195/TS-TTLT kí ngày 18/1/2001, chứng minh lô 467 nói trên và lô 468 (có 295m2 đất ông Ngọc nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995) là hai lô khác nhau, liền ranh. |
Đất trên, do tôi nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995 của ông Nguyễn Văn Đời (do con là ông Chắng đại diện) là hợp lệ và hợp pháp. Thực tế, tôi sử dụng và quản lí phần đất 318m2 (diện tích đo đạc giải quyết tranh chấp là 295m2); hai bên đã thực hiện xong nội dung hợp đồng chuyển nhượng đất thổ cư ngày 11/11/1995, bên chuyển nhượng đã giao đất và nhận đủ tiền. Giao dịch này có ông Phạm Trung Quang ở địa phương chứng kiến và làm nhân chứng trong vụ án. Và sau khi nhận đất, tôi có dựng tạm hàng rào và cất căn nhà cấp 4 và nhờ bà Nguyễn Thị Tựu, (sinh năm 1960) trông coi quản lí và sử dụng làm nơi ở. Bà Tựu có thực hiện đăng kí lưu trú với chính quyền địa phương và quản lí sử dụng phần đất này cho đến nay. Năm 1999, tôi có đơn xin sử dụng một phần diện tích 176m2/318m2 để cất nhà ở.
Quận Thủ Đức có Tờ trình số: 03/TT-ĐĐ ngày 10/1/2000 gửi UBND TP Hồ Chí Minh về việc xem xét công nhận quyền sử dụng 295m2 đất trên cho tôi, theo CV2339/QĐ-UBĐT ngày 12/4/2000 của UBND TP Hồ Chí Minh. Lúc này, tôi đã nộp thuế đất theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế quận Thủ Đức, để xét cấp GCNQSDĐ cho tôi.
Biên bản hoà giải tranh chấp đất |
Các lẽ trên là cơ sở để tôi kiến nghị TAND cấp phúc thẩm bác đơn kháng cáo và tiếp tục cấp GCNQSDĐ 295m2 đất cho tôi.
Hai, phần đất 295m2 thửa số 468, tôi mua của ông Nguyễn Văn Đời (do con là ông Chắng đại diện) từ năm 1995 nói trên, không liên quan gì đến quyền sử dụng đất của các bị đơn. Bởi lẽ:
Năm 2000, sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế, trong khi chờ xét cấp GCNQSDĐ, tôi tiến hành thi công xây tường rào theo ranh đất, thì bà Châu Thị Dực (mẹ của ông Đức và ông Hạnh là đồng bị đơn trong vụ án này và cũng là hộ sống liền kề ranh đất của tôi) ra ngăn cản và gửi đơn khiếu nại đến UBND phường Hiệp Bình Phước. Vì cho rằng, gia đình bà Dực đã mua của ông Nguyễn Văn Cảnh phần đất 793m2/1.880m2 (không liên quan phần đất 295m2 thửa số 468 nói trên) theo tài liệu 02 gồm các thửa 301, 444, 445 và một phần thửa 302, từ năm 1961, nhưng chưa sử dụng; và cho rằng phần đất mà tôi xây dựng tường rào nằm trong phần đất của bà Dực đã mua, nên yêu cầu UBND phường giải quyết, buộc tôi không được xây tường rào và giao trả đất cho bà.
Trong khi, thực tế và theo Bản đồ hiện trạng ngày 12/2/1998, do Đoàn đo đạc Bản đồ Sở Địa chính lập thể hiện phần đất 1.880m2 của ông Nguyễn Văn Cảnh không liên quan gì đến phần đất tranh chấp là 295m2 nói trên. Ngoài ra, còn có bản đồ hiện trạng do Sở Địa chính lập ngày 12/2/1998 thì phần đất 1.880m2 của ông Cảnh cho bà Dực 1 phần để làm nhà ở, cũng không liên quan gì đến đất tranh chấp là 295m2 nói trên. Điều này còn được thể hiện ở việc, UBND phường Hiệp Bình Phước khẳng định: “Ổn định phần đất đã lập cho ông Lê Văn Ngọc từ năm 1995” (“Biên bản Hòa giải tranh chấp đất” ngày 30/3/1998, có Bút lục số 59 của TAND Thủ Đức).
Xin nói rõ thêm: Việc hộ gia đình bà Dực (bà Dực chết năm 2015), ông Đức và ông Hạnh tiếp tục tranh chấp với hộ ông Nguyễn Văn Chí (sinh năm 1937, hiện còn sống). Tranh chấp này, được TAND TP Hồ Chí Minh giải quyết ra Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 571/QĐSTDS ngày 26/8/2024.
Theo Quyết định số: 571/QĐ-ST-DS ngày 26/8/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh, thể hiện: Quyền sử dụng đất 1.858,6m2 (đo thực tế phần đất 1.880m2 nói trên) thuộc thửa 467, tờ bản đồ thứ 2 xã Hiệp Bình (cũ), quận Thủ Đức, tọa lạc tại địa chỉ 537 Quốc lộ 13, phường Hiệp Bình Phước, TP Hồ Chí Minh có tranh chấp giữa: ông Chí, ông Quang với ông Đức và ông Hạnh (đất gốc do ông Nguyễn Văn Cảnh - cha ông Chí, đứng bộ);
Theo Bản đồ hiện trạng ngày 28/4/2023, do Trung tâm Đo đạc bản đồ, Sở Tài nguyên và Môi trường phát hành; theo bản vẽ vị trí hiện trạng kí ngày 28/4/2023 phù hợp với vị trí hiện trạng năm 2020 do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường và Trung tâm Thông tin lưu trữ tư liệu - Sở Địa chính nhà đất đã Trích sao địa bộ cho Phòng Quản lí nhà đất Thủ Đức bằng 2 Văn bản số: 194/TS-TTLT và 195/TS-TTLT kí ngày 18/1/2001, đã chứng minh lô 467 nói trên và lô 468 (có 295m2 đất tôi nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995) là hai lô khác nhau, liền ranh. Điều này cũng thể hiện qua việc đóng cột mốc ranh đất lô 467 ngày 25/10/2024 của ông Phạm Trung Quang, ông Đoàn Minh Đức và Đoàn Hữu Hạnh là phù hợp (tôi là Lê Văn Ngọc chứng kiến đóng ranh) hai lô 467, 468 chỉ là liền ranh”.
“Biên bản bàn giao thực địa cắm mốc và vị trí mốc” ngày 22/10/2024, thể hiện ông Ngọc kí giáp ranh: thửa 467 và 468 liền kề nhau (2 thửa độc lập) và Văn bản số 154/CV-ĐĐBĐ ngày 15/4/2003 về việc xác định vị trí khu đất ông Lê Văn Ngọc xin sử dụng xây dụng nhà ở”, do ông Nguyễn Kỳ Tâm, Phó Trưởng Đoàn đo đạc Bản đồ (Sở Địa chính - Nhà đất TP Hồ Chí Minh) kí, ban hành. Trong khi, ông Ngọc không có đơn xin xác định này. |
Đơn của ông Lê Văn Ngọc viết tiếp: “Ba, hồ sơ và thực tế thể hiện Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của tôi là có cơ sở.
Tranh chấp quyền sử dụng đất giữa tôi và gia đình bà Dực kéo dài từ năm 2000 đến nay, được các cơ quan, ban, ngành, TAND quận Thủ Đức, TAND TP Hồ Chí Minh giải quyết bằng các văn bản, quyết định hành chính, bản án hành chính sơ thẩm, phúc thẩm từ năm 2002, 2003; gần đây nhất là Bản án dân sự sơ thẩm số: 781/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh. Cụ thể như sau:
- Tờ trình số: 1342/TT-QLĐT ngày 9/8/2001 của Phòng Quản lí đô thị quận Thủ Đức: Không công nhận đơn khiếu nại của bà Dực;
- Quyết định số: 159/QĐ-UB ngày 27/8/2001 của UBND quận Thủ Đức: Không công nhận đơn khiếu nại của bà Dực;
- Quyết định số: 248/QĐ-UB ngày 27/11/2001 của Chủ tịch UBND quận Thủ Đức: Bác đơn khiếu nại của bà Dực; công nhận Quyết định số 159 trên;
- Công văn số: 1192/UB-QLĐT ngày 7/10/2002 của UBND quận Thủ Đức, gửi TAND quận Thủ Đức: Xác định bà Dực căn cứ vào bằng khoán đất của ông Cảnh đứng bộ thuộc lô 467, tờ bản đồ số 02 với diện tích 2.960m2, theo tài liệu 299/TTg của Chính Phủ lập thành thửa 343, diện tích 1880m2. Theo tài liệu 02 lập thành các thửa 301, 444, 445 và một phần thửa 302 và bản đồ hiện trạng ngày 12/12/1998 do Đoàn Đo đạc bản đồ Sở địa chính - Nhà đất đo vẽ theo chỉ dẫn của ông Đức, để tranh chấp với ông Ngọc là không có cơ sở;
- Công văn số: 2648/UB-QLĐT ngày 20/12/2002 của UBND quận Thủ Đức, gửi TAND quận Thủ Đức xác định thửa đất 468, do tôi nhận chuyển nhượng của ông Đời (cha ông Chắng) theo Hợp đồng ngày 11/11/1995.
- Bản án Hành chính sơ thẩm số: 01/HCST ngày 24/12/2002 của TAND quận Thủ Đức: Bác đơn khởi kiện hành chính của bà Dực về việc yêu cầu huỷ Quyết định số 159 và 248 trên.
- Bản án Hành chính phúc thẩm số: 30/HCPT, ngày 19/5/2003 của TAND TP Hồ Chí Minh: chấp nhận đơn kháng cáo của bà Dực, sửa bản án sơ thẩm về yêu cầu huỷ Quyết định số 159 và 248 trên, để giải quyết lại vụ tranh chấp. Trong khi, chưa xem xét 2 công văn 194/TS-TTLT và 195/TS-TTLT kí ngày 18/1/2001 nói trên; và cũng chưa xem xét 2 văn bản và bản vẽ hiện trạng vị trí có dấu hiệu ngụy tạo hồ sơ (xin nói rõ sau đây).
- Từ khi TAND TP Hồ Chí Minh xét xử và ban hành Bản án phúc thẩm số 30/HCPT ngày 19/5/2003 đến hơn 15 năm qua, tranh chấp giữa tôi với bà Dực chưa giải quyết xong. Bởi, bà Dực còn tranh chấp với ông Nguyễn Văn Chí. Đến năm 2018, được UBND quận Thủ Đức hướng dẫn, tôi khởi kiện dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất” với ông Đức và ông Hạnh, do có yếu tố liên quan người nước ngoài, TAND TP Hồ Chí Minh thụ lí số: 634/2018/TLST-DS ngày 10/8/2018, giải quyết theo thẩm quyền.
- Bản án số: 781/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của tôi, công nhận phần đất 295m2 nói trên, do tôi nhận chuyển nhượng từ năm 1995 của ông Đời (do ông Chắng đại diện) là hợp lệ và hợp pháp; ông Ngọc được quyền liên hệ cơ quan chức năng có thẩm quyền để hoàn tất thủ tục đứng tên quyền sử dụng đất theo quy định.
Bản án số 781/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh. |
Có thể thấy, hồ sơ và thực tế thể hiện Bản án số: 781/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh chấp nhận yêu cầu khởi kiện của tôi là có cơ sở.
Bốn, có dấu hiệu lợi dụng chức vụ quyền hạn, ngụy tạo hồ sơ vụ án để cung cấp cho Tòa án nhằm mục đích hỗ trợ cho các bị đơn “chiếm đoạt tài sản của tôi.
Năm 2002, giữa tôi - Lê Văn Ngọc và gia đình bà Châu Thị Dực có tranh chấp quyền sử dụng 295m2 đất trên, và khởi kiện, xét xử tại TAND quận Thủ Đức và TAND TP Hồ Chí Minh. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Kỳ Tâm, Phó Trưởng Đoàn đo đạc Bản đồ (Sở Địa chính-Nhà đất TP Hồ Chí Minh) kí xác nhận nội dung Văn bản số CV- 539 TT- ĐĐBĐ 21/11/2000 cung cấp cho ông Đoàn Minh Đức để cung cấp cho Tòa án nhằm mục đích hỗ trợ cho bà Dực chiếm đoạt tài sản của tôi. Ông Đức là con của bà Dực. Điều này, được thể hiện tại hai văn bản và bản đồ vị trí, như sau:
- Trong Văn bản số: CV- 539 TT- ĐĐBĐ 21/11/2000 do ông Nguyễn Kỳ Tâm kí cấp (theo yêu cầu và hướng dẫn ranh của ông Đức) cho ông Đức, có nội dung: “Đoàn đo đạc Bản đồ xác định vị trí các thửa … 467 và 468, … là có cùng một vị trí”, là mâu thuẫn (sai) với xác định của Trung tâm lưu trữ tư liệu: Xác định nhà ông Đức ở lô 467 (công văn 194/TS-TTLT và 195/TS-TTLT kí ngày 18/1/2001 nói trên).
- Công văn: CV-154 TT-ĐĐBĐ 15/4/2003 do ông Nguyễn Kỳ Tâm kí đã xác nhận thửa đất 955, diện tích 176m2 nằm trọn trong tờ bản đồ 467 do ông Cảnh đứng bộ, là mâu thuẫn (sai) với thực tế vị trí thửa đất 468.
- Theo “Biên bản bàn giao thực địa cắm mốc và vị trí mốc” ngày 22/10/2024, thể hiện ông Ngọc kí giáp ranh: Thửa 467 và 468 liền kề nhau (2 thửa độc lập).
- Ngụy tạo hồ sơ vụ án còn được thể hiện tại Văn bản số: 154/CV-ĐĐBĐ ngày 15/4/2003 “về việc xác định vị trí khu đất ông Lê Văn Ngọc xin sử dụng xây dụng nhà ở”, do ông Nguyễn Kỳ Tâm, Phó Trưởng Đoàn đo đạc Bản đồ (Sở Địa chính-Nhà đất TP Hồ Chí Minh) kí, ban hành. Trong khi, tôi không có đơn xin xác định này.
- Tại Kết luận giám địnhsố: 9048/KL KTHS ngày 31/7/2024 của Phòng Kĩ thuật Hình sự (Công an TP Hồ Chí Minh): Công văn 154 kí không lưu trữ bản gốc mà chỉ có bản có chữ kí sao chụp.
- Quyết định của TAND TP Hồ Chí Minh ngày 25/9/2024 cũng đã nêu rõ những nội dung sai sót trên và đã chấp nhận đơn của ông Lê Văn Ngọc theo yêu cầu khởi kiện. Xác định 2 thửa 476 và 468 là hai thửa liền ranh.
- Quyết định số: 571/QĐST/DS ngày 26/8/24 Công nhận hòa giải thành giữa ông Chí (ủy quyền ông Quang), với ông Đức và ông Hạnh cũng xác định chỉ tranh chấp thửa 467, chứ không phải thửa 468.
Bức xúc của người cao tuổi
Ông Lê Văn Ngọc cho biết: “Hồ sơ vụ án thể hiện kiến trúc sư Đoàn Minh Đức là cán bộ đô thị quận 2 (cũ) đã nộp 2 văn bản và 1 bản vẽ có dấu hiệu ngụy tạo chữ kí của tôi (Văn bản số 154/CV-ĐĐBĐ) và thể hiện dấu hiệu sửa nội dung Văn bản số 533/CV/ĐĐBĐ và bản vẽ không có nguồn gốc đưa vào hồ sơ để Tòa án xét xử năm 2003. Là dấu hiệu ngụy tạo chứng cứ thể hiện có hành vi vi phạm đạo đức, xâm hại đến sự nghiêm minh của pháp luật để cung cấp tài liệu cho TAND TP Hồ Chí Minh năm 2003. Trong khi bản thân tôi không biết 2 văn bản và bản đồ vị trí. Chỉ đến năm 2018, khi mở phiên tòa dân sự (tôi là nguyên đơn) tôi mới tiếp cận được 2 văn bản và bản đồ vị trí nói trên. Vậy ai là người giúp sức cho kiến trúc sư Đoàn Minh Đức thực hiện việc có dấu hiệu làm trái này?
Tôi nói rõ thêm về 2 luật sư Nguyễn Thị Anh Đào và Trần Thị Hải Anh, Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai bào chữa cho kiến trúc sư Đoàn Minh Đức tại phiên tòa sơ thẩm năm 2018; trong phiên tòa xử ngày 25/9/2024, khi chủ tọa phiên tòa hỏi luật sư bị đơn và đề nghị cung cấp bản chính về thửa đất của ông Nguyễn Văn Cảnh mà trong giao nhận chứng cứ luật sư cam kết, có bản gốc. Nhưng tại phiên tòa này, Luật sư lại trả lời: Tôi quên mang theo. Điều này, đã làm cho cả phiên tòa im lặng đến khó hiểu. Chưa hết, ông Đức và ông Hạnh còn nhiều lần khẳng định là có mua thửa đất do ông Cảnh đứng bộ, nhưng giấy tờ do lũ lụt bị mất!? Trong khi, thực tế thể hiện ở Biên bản Hòa giải tranh chấp đất ngày 30/3/1998 (có bút lục tại TAND quận Thủ Đức) thể hiện là ông Đức và ông Hạnh ở nhờ và ông Cảnh đã bồi thường hoa màu 5 cây vàng + 1 cây vàng đường đi cho ông Đức và ông Hạnh. Và trong Bản án số 781/2024 ngày 25/9/2024 cũng nói rõ là ở nhờ.
Ông Tâm đã kí xác nhận bản sao y trên “bản vẽ hiện trạng vị trí 11085/GĐ-ĐC-NĐ ngày 20/3/2000” ngày 20/10/2009, không có con dấu và chữ kí của bản chính; do bà Dực hướng dẫn ranh, thể hiện có dấu hiệu ghép từ bản đồ, để gửi cho TAND TP Hồ Chí Minh là có dấu hiệu nhằm chiếm đoạt đất của tôi.
Tôi thấy cần thiết phải nói rõ: Các văn bản có dấu hiệu ngụy tạo hồ sơ vụ án nói trên, còn thể hiện hoàn toàn mâu thuẫn với 2 văn bản thể hiện chủ quyền sử dụng đất hợp pháp của tôi đối với thửa đất 468, cụ thể như sau:
1. Công văn: 194/TS-TTLT do Giám đốc Nguyễn Văn Quân kí ban hành ngày 18/1/2001 (Trích sao sổ địa bộ) cấp cho Phòng Quản lí đô thị quận Thủ Đức theo yêu cầu của ông Lê Văn Ngọc, có nội dung:
Số địa bộ: 467 (cũ 1335)
Số bản đồ: 467
Tờ bản đồ số 2
Tọa lạc tại xã Hiệp Bình
Diện tích 2.650m2
Loại đất: Trồng mía
Tên chủ đất đến ngày 30/04/1975: Nguyễn Văn Cảnh.
2. Công văn: 195/TS-TT-LT ngày 18/1/2001, do Giám đốc Nguyễn Văn Quân kí ban hành ngày 18/1/2001 (Trích sao sổ địa bộ) cấp cho Phòng Quản lí đô thị quận Thủ Đức theo yêu cầu của ông Lê Văn Ngọc, có nội dung:
Số địa bộ: 468 (cũ 85)
Số bản đồ: 468
Tờ bản đồ số 2
Tọa lạc tại xã Hiệp Bình
Diện tích 1.600m2
Loại đất: Trồng mía
Tên chủ đất đến ngày 30/4/1975: Trần Văn Tiếng và Châu Thị Kiên đứng bộ.
Đất này do tôi-Lê Văn Ngọc nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Văn Đời đăng kí 299/TTG, đã được UBND TP Hồ Chí Minh kí quyết định cấp đất cho ông Ngọc làm nhà theo Công văn: 2339/QĐ - UBĐT của UBND TP Hồ Chí Minh kí ngày 12/4/2000 thuộc thửa 468.
Bản thân tôi là một tiến sĩ, đóng góp trong nghiên cứu chất độc 3-2 cho Bộ Quốc phòng và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1990. Nhóm nghiên cứu của tôi có 3 người, đều mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối, trong đó 1 người đã mất. Cho dù thực tế có như vậy, thì tôi cũng cảm thấy tự hào và đón nhận vì ít nhất cũng đóng góp được công sức trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Hơn 26 năm qua, gia đình tôi phải sống trong căn phòng 15m2 (nhà ở xã hội) một thời gian và sau đó phải đi thuê nhiều nơi khác để đáp ứng nhu cầu sinh sống, làm việc của tôi và cả gia đình. Tôi không thể kể hết cơ cực cuộc đời của tôi và gia đình đến tận cùng sự đau khổ, tủi nhục... Liệu rằng ngoài gia đình tôi còn có những khuất tất khác mà chưa được làm rõ tại Trung tâm Đo đạc quận 2. Ngay cả tiền mua đất tôi trả lãi gần 20 năm mới hết được cũng như phải cung cấp hằng tháng tiền cho người giữ đất, nay vẫn tiếp tục trả.
Riêng nguyện vọng bản thân, mong muốn cán cân công lí được thực hiện trước khi tôi ra đi. Để giúp cho bản thân tôi-gia đình tôi có nơi ở ổn định cũng như xã hội có một cuộc sống công bằng”.
Thực hiện Điều 5 Luật Người cao tuổi năm 2009, Tạp chí Người cao đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết nguyện vọng của người cao tuổi là ông Lê Văn Ngọc; thông báo kết quả để Tạp chí trả lời người cao tuổi và bạn đọc theo quy định.