Người cao tuổi đề nghị bác kháng cáo vì nhiều dấu hiệu khuất tất
Pháp luật - Bạn đọc 22/11/2024 17:06
Những nội dung kiến nghị
Trước khi phiên tòa phúc thẩm được mở, Nguyên đơn - ông Lê Văn Ngọc tiếp tục có đơn kiến nghị cần bác đơn kháng cáo của bị đơn Đoàn Minh Đức và ông Đoàn Hữu Hạnh, với nội dung:
“Một, việc đã từng xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) 295m2 thửa số 468 tại ấp 3, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức (nay là phường Hiệp Bình Phước, TP Thủ Đức), TP Hồ Chí Minh cho tôi là có cơ sở.
2 Văn bản: 194/TS-TTLT và 195/TS-TTLT kí ngày 18/1/2001, chứng minh lô 467 nói trên và lô 468 (có 295m2 đất ông Ngọc nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995) là hai lô khác nhau, liền ranh. |
Đất trên, do tôi nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995 của ông Nguyễn Văn Đời (do con là ông Chắng đại diện) là hợp lệ và hợp pháp. Thực tế, tôi sử dụng và quản lí phần đất 318m2 (diện tích đo đạc giải quyết tranh chấp là 295m2); hai bên đã thực hiện xong nội dung hợp đồng chuyển nhượng đất thổ cư ngày 11/11/1995, bên chuyển nhượng đã giao đất và nhận đủ tiền. Giao dịch này có ông Phạm Trung Quang ở địa phương chứng kiến và làm nhân chứng trong vụ án. Và sau khi nhận đất, tôi có dựng tạm hàng rào và cất căn nhà cấp 4 và nhờ bà Nguyễn Thị Tựu, (sinh năm 1960) trông coi quản lí và sử dụng làm nơi ở. Bà Tựu có thực hiện đăng kí lưu trú với chính quyền địa phương và quản lí sử dụng phần đất này cho đến nay. Năm 1999, tôi có đơn xin sử dụng một phần diện tích 176m2/318m2 để cất nhà ở.
Quận Thủ Đức có Tờ trình số: 03/TT-ĐĐ ngày 10/1/2000 gửi UBND TP Hồ Chí Minh về việc xem xét công nhận quyền sử dụng 295m2 đất trên cho tôi, theo CV2339/QĐ-UBĐT ngày 12/4/2000 của UBND TP Hồ Chí Minh. Lúc này, tôi đã nộp thuế đất theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế quận Thủ Đức, để xét cấp GCNQSDĐ cho tôi.
Biên bản hoà giải tranh chấp đất |
Các lẽ trên là cơ sở để tôi kiến nghị TAND cấp phúc thẩm bác đơn kháng cáo và tiếp tục cấp GCNQSDĐ 295m2 đất cho tôi.
Hai, phần đất 295m2 thửa số 468, tôi mua của ông Nguyễn Văn Đời (do con là ông Chắng đại diện) từ năm 1995 nói trên, không liên quan gì đến quyền sử dụng đất của các bị đơn. Bởi lẽ:
Năm 2000, sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế, trong khi chờ xét cấp GCNQSDĐ, tôi tiến hành thi công xây tường rào theo ranh đất, thì bà Châu Thị Dực (mẹ của ông Đức và ông Hạnh là đồng bị đơn trong vụ án này và cũng là hộ sống liền kề ranh đất của tôi) ra ngăn cản và gửi đơn khiếu nại đến UBND phường Hiệp Bình Phước. Vì cho rằng, gia đình bà Dực đã mua của ông Nguyễn Văn Cảnh phần đất 793m2/1.880m2 (không liên quan phần đất 295m2 thửa số 468 nói trên) theo tài liệu 02 gồm các thửa 301, 444, 445 và một phần thửa 302, từ năm 1961, nhưng chưa sử dụng; và cho rằng phần đất mà tôi xây dựng tường rào nằm trong phần đất của bà Dực đã mua, nên yêu cầu UBND phường giải quyết, buộc tôi không được xây tường rào và giao trả đất cho bà.
Trong khi, thực tế và theo Bản đồ hiện trạng ngày 12/2/1998, do Đoàn đo đạc Bản đồ Sở Địa chính lập thể hiện phần đất 1.880m2 của ông Nguyễn Văn Cảnh không liên quan gì đến phần đất tranh chấp là 295m2 nói trên. Ngoài ra, còn có bản đồ hiện trạng do Sở Địa chính lập ngày 12/2/1998 thì phần đất 1.880m2 của ông Cảnh cho bà Dực 1 phần để làm nhà ở, cũng không liên quan gì đến đất tranh chấp là 295m2 nói trên. Điều này còn được thể hiện ở việc, UBND phường Hiệp Bình Phước khẳng định: “Ổn định phần đất đã lập cho ông Lê Văn Ngọc từ năm 1995” (“Biên bản Hòa giải tranh chấp đất” ngày 30/3/1998, có Bút lục số 59 của TAND Thủ Đức).
Xin nói rõ thêm: Việc hộ gia đình bà Dực (bà Dực chết năm 2015), ông Đức và ông Hạnh tiếp tục tranh chấp với hộ ông Nguyễn Văn Chí (sinh năm 1937, hiện còn sống). Tranh chấp này, được TAND TP Hồ Chí Minh giải quyết ra Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 571/QĐSTDS ngày 26/8/2024.
Theo Quyết định số: 571/QĐ-ST-DS ngày 26/8/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh, thể hiện: Quyền sử dụng đất 1.858,6m2 (đo thực tế phần đất 1.880m2 nói trên) thuộc thửa 467, tờ bản đồ thứ 2 xã Hiệp Bình (cũ), quận Thủ Đức, tọa lạc tại địa chỉ 537 Quốc lộ 13, phường Hiệp Bình Phước, TP Hồ Chí Minh có tranh chấp giữa: ông Chí, ông Quang với ông Đức và ông Hạnh (đất gốc do ông Nguyễn Văn Cảnh - cha ông Chí, đứng bộ);
Theo Bản đồ hiện trạng ngày 28/4/2023, do Trung tâm Đo đạc bản đồ, Sở Tài nguyên và Môi trường phát hành; theo bản vẽ vị trí hiện trạng kí ngày 28/4/2023 phù hợp với vị trí hiện trạng năm 2020 do Trung tâm Đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường và Trung tâm Thông tin lưu trữ tư liệu - Sở Địa chính nhà đất đã Trích sao địa bộ cho Phòng Quản lí nhà đất Thủ Đức bằng 2 Văn bản số: 194/TS-TTLT và 195/TS-TTLT kí ngày 18/1/2001, đã chứng minh lô 467 nói trên và lô 468 (có 295m2 đất tôi nhận chuyển nhượng ngày 11/11/1995) là hai lô khác nhau, liền ranh. Điều này cũng thể hiện qua việc đóng cột mốc ranh đất lô 467 ngày 25/10/2024 của ông Phạm Trung Quang, ông Đoàn Minh Đức và Đoàn Hữu Hạnh là phù hợp (tôi là Lê Văn Ngọc chứng kiến đóng ranh) hai lô 467, 468 chỉ là liền ranh”. (Còn nữa)