Agribank - Thương hiệu mạnh Việt Nam 2025
Xã hội 04/09/2025 16:12
Do trên thế giới đang diễn ra quá trình già hóa dân số (GHDS) nhanh chóng, đồng thời, nhiều nước đã chuyển sang dân số già, nền kinh tế bạc là xu hướng tất yếu, ngày càng chiếm tỉ lệ đáng kể trong nền kinh tế nói chung và tác động đến mọi mặt của xã hội và NCT.
Nền kinh tế bạc với rất nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo ra khối lượng sản phẩm vật chất và dịch vụ rất lớn cho NCT. Các ngành nghề, lĩnh vực thuộc về kinh tế bạc bao gồm: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các cơ sở y tế lão khoa, trung tâm điều dưỡng, dịch vụ chăm sóc tại nhà, các sản phẩm, trang thiết bị y tế chuyên biệt dành cho NCT. Các hoạt động du lịch, thể dục thể thao, các dịch vụ văn hóa, nghệ thuật phục vụ nhu cầu giải trí, thưởng thức của NCT. Xây dựng, quản lý và vận hành hệ thống các cơ sở dưỡng lão, trung tâm nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe, nhà ở cho NCT… Bảo hiểm y tế, bảo hiểm chăm sóc điều dưỡng, dịch vụ tư vấn tài chính và đầu tư, quản lý tài sản, dịch vụ tiết kiệm hưu trí… cho NCT. Các hoạt động và chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho NCT như hỗ trợ tài chính, cho vay vốn, tư vấn giới thiệu việc làm, cơ chế và chính sách ưu đãi các cơ sở thu hút lao động là NCT… Các dịch vụ đào tạo kỹ năng, bồi dưỡng, chuyển đổi nghề cho NCT; các dịch vụ đào tạo và cung cấp nhân lực cho các cơ sở điều dưỡng, trung tâm chăm sóc sức khỏe và cơ sở y tế phục vụ người già. Cung cấp các trang thiết bị, giải pháp công nghệ thông minh dựa trên AI phục vụ người già; các ứng dụng số nhằm hỗ trợ đi lại, thông tin liên lạc, nghe nhìn… phục vụ cho cuộc sống hằng ngày của NCT. Các dịch vụ, phương tiện giao thông, trang thiết bị phục vụ, hỗ trợ đi lại phù hợp và thuận tiện cho NCT. Các thực phẩm thông thường và thực phẩm chức năng sản xuất chuyên dành cho người già; các sản phẩm dinh dưỡng riêng…
![]() |
Ở các nước (phương Tây, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) đã chuyển sang dân số già, kinh tế bạc ngày càng được quan tâm, chú trọng phát triển, mở rộng về quy mô, doanh thu, đa dạng hoá ngành nghề, lĩnh vực…
Kinh tế bạc một mặt, tạo ra cơ hội việc làm, phát triển các ngành nghề, lĩnh vực liên quan, gia tăng tổng sản phẩm xã hội, đóng góp quan trọng tăng trưởng kinh tế; đồng thời hướng đến phục vụ, chăm sóc các thế hệ NCT, tạo điều kiện hỗ trợ và cải thiện sức khỏe, chất lượng sống cho họ trong những năm cuối đời.
Có 3 nhân tố cấu thành kinh tế bạc, bao gồm: Các doanh nghiệp, chủ thể sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu của NCT. Bản thân NCT là đối tượng tiêu dùng, thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ được tạo ra phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và điều kiện của mình. Nhà nước là nhân tố quan trọng, đóng vai trò định hướng chính sách, ban hành chiến lược, kế hoạch và cơ chế để phát triển kinh tế bạc.
Nền kinh tế bạc hướng đến phục vụ cuộc sống và tiêu dùng của NCT, bao gồm các phân khúc và lĩnh vực khác nhau, tuỳ thuộc nhu cầu và đặc điểm của NCT ở các lứa tuổi khác nhau: Những người từ độ tuổi 60-70 chủ yếu có nhu cầu kết nối và sinh hoạt cộng đồng, thể thao, du lịch, giải trí văn hóa, nghệ thuật, trong khi những người có tuổi cao hơn có nhu cầu với các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ, quản lý bệnh tật, hỗ trợ đi lại, phương tiện nghe nhìn…
Báo cáo của Liên Hợp Quốc đầu năm 2023 đã khẳng định GHDS là xu hướng toàn cầu. Hiện thế giới có khoảng 760 triệu người từ 65 tuổi trở lên và dự kiến tăng lên 1,6 tỷ người vào năm 2050. Số NCT tăng nhanh khiến kinh tế bạc ngày càng được quan tâm và phát triển, đặc biệt tại các nước phương Tây, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Ở châu Âu, kinh tế bạc chiếm khoảng 25% GDP. Nền kinh tế bạc tại Trung Quốc tương đương 6% GDP, dự kiến đạt 4.200 tỷ USD, chiếm 10% GDP vào năm 2035. Nền kinh tế thế giới nói chung có được động lực phát triển bởi nhu cầu tiêu dùng ngày càng nhiều và đa dạng của NCT. NCT không chỉ là gánh nặng cho Nhà nước và xã hội, mà còn cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế, đồng thời, tạo ra nhu cầu tiêu dùng khổng lồ cho hàng hóa và dịch vụ.
Từ thực tế đặt ra, các nước trên thế giới đã có nhiều giải pháp và chính sách ứng phó GHDS và dân số già, đẩy mạnh phát triển kinh tế bạc. Nhật Bản chú trọng các dịch vụ, cơ sở chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm xã hội cho NCT; tăng tuổi nghỉ hưu, khuyến khích NCT lao động, ưu đãi các doanh nghiệp sử dụng lao động là NCT; phát triển các hàng hóa, dịch vụ phục vụ NCT; chú trọng các công nghệ thông minh hỗ trợ nghe nhìn, đi lại, theo dõi sức khỏe; phát triển du lịch và văn hóa… Nước Đức đặc biệt quan tâm hệ thống chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm xã hội, tổ chức dịch vụ y tế và xã hội đồng bộ, tăng cường đào tạo và thúc đẩy việc làm cho NCT, chú trọng môi trường sống và hạ tầng xã hội… Pháp đặc biệt chú ý an sinh xã hội, hỗ trợ lao động cao tuổi, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, ứng dụng công nghệ hỗ trợ. Trung Quốc quy định 26 giải pháp về chăm sóc sức khỏe, dịch vụ thực phẩm, văn hóa và giải trí, phát triển công nghiệp sản xuất các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, phát hành trái phiếu phục vụ kinh tế bạc.
Việt Nam là nước diễn ra quá trình GHDS nhanh nhất thế giới, với thời gian khoảng 20 năm. Số NCT đến năm 2023 là gần 16,3 triệu người, chiếm khoảng 16,3% dân số. Theo dự kiến, đến khoảng năm 2036, Việt Nam sẽ chuyển sang dân số già. Đứng trước thực trạng này, Đảng, Nhà nước đã điều chỉnh định hướng, chủ trương phù hợp và đúng đắn về vấn đề dân số. Theo đó, Đảng đề ra quan điểm chủ động thích ứng với GHDS, chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Đồng thời, định hướng chính sách đối với NCT thể hiện ở cả 3 mặt (bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò NCT), không chỉ coi NCT là đối tượng chăm sóc, là gánh nặng về an sinh xã hội, mà còn là bổ sung lực lượng lao động cho xã hội, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
| Kinh tế bạc với rất nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ cho Người cao tuổi... |
Ở nước ta, nền kinh tế bạc với các ngành nghề, lĩnh vực tạo ra hàng hóa và dịch vụ liên quan, ngày càng trở nên thật sự cần thiết phục vụ trực tiếp cuộc sống, sinh hoạt của NCT. Bên cạnh đó, nền kinh tế bạc Việt Nam còn có một số nét đặc thù.
1. Kinh tế bạc đã tồn tại hiện hữu, bước đầu phát triển, song chưa thật sự được quan tâm, chú ý đúng mức; quy mô các ngành nghề, lĩnh vực thuộc kinh tế bạc còn nhỏ bé, phân tán, rời rạc, manh mún, chưa nổi lên là ngành kinh tế thực sự.
2. Hệ thống thể chế, luật pháp về kinh tế bạc chưa đầy đủ; cơ chế, chính sách nói chung và cho từng ngành, lĩnh vực chưa đồng bộ; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống nhà dưỡng lão, các trung tâm chăm sóc, nghỉ dưỡng NCT, cơ sở y tế lão khoa,v.v; các quy chế, quy định, tiêu chuẩn hóa từng lĩnh vực phục vụ người già trong xây dựng, giao thông vận tải, nhà ở… còn thiếu.
3. Quá trình GHDS đang đặt ra những thách thức về kinh tế - xã hội, theo đó, đòi hỏi phải hình thành những ngành, lĩnh vực tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ phục vụ tiêu dùng của NCT, đồng thời tạo ra cơ hội và khả năng phát triển rất nhiều lĩnh vực, ngành nghề chăm sóc và phát huy nguồn lực của NCT.
Việc hình thành và phát triển kinh tế bạc ở Việt Nam dựa trên những đặc thù sau đây: Quá trình GHDS của nước ta diễn ra vào loại nhanh nhất thế giới (khoảng 20 năm); hiện tượng GHDS diễn ra trong bối cảnh xã hội chưa giàu đã già, hệ thống an sinh xã hội chưa đầy đủ và hoàn chỉnh, chưa đáp ứng yêu cầu của tất cả các bộ phận dân cư (mới có khoảng hơn 1/3 NCT được hưởng bảo hiểm xã hội, trợ cấp hưu trí; phần lớn NCT khu vực phi chính thức chưa được hưởng chế độ hưu trí và các khoản trợ cấp của Nhà nước).
Từ thực tế GHDS và sự phát triển kinh tế bạc trên, trong thời gian tới, Việt Nam cần triển khai một số giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh truyền thông, quảng bá về kinh tế bạc, gắn với thực trạng GHDS trong xã hội, đặc biệt là trong cộng đồng doanh nghiệp, các nhà quản lý.
Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp lý về kinh tế bạc, chú trọng các quy định ngành nghề, lĩnh vực tạo ra các sản phẩm, dịch vụ cấp thiết phục vụ NCT.
Ba là, ban hành chiến lược, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế bạc, đặt trong quan hệ với nền kinh tế chung của quốc gia.
Bốn là, phát triển kinh tế bạc gắn liền với việc phát triển, củng cố hệ thống an sinh xã hội. Đây là hai mặt của một vấn đề, thể hiện Nhà nước và xã hội phối hợp bảo vệ, chăm sóc và phát huy NCT.
Năm là, việc phát triển kinh tế bạc dựa trên phương châm Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách, thực hiện công tác quản lý chung; xã hội đầu tư kinh doanh, phát triển ngành nghề, lĩnh vực phù hợp với nhu cầu của NCT và tín hiệu thị trường.
Sáu là, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm quốc tế về kinh tế bạc, vận dụng cụ thể phù hợp với đặc thù của Việt Nam.
Bảy là, khuyến khích, tạo cơ hội, hỗ trợ tạo việc làm cho NCT thông qua cơ chế, chính sách cụ thể cho người lao động và người sử dụng lao động.