Đầu tư cùng con cháu: Xu hướng mới của NCT thời 4.0
NCT làm kinh tế giỏi 29/07/2025 14:00
Theo Dữ liệu dân cư quốc gia, cả nước hiện có gần 17 triệu NCT, chiếm khoảng 17% dân số. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất Châu Á, thời gian chuyển từ giai đoạn già hóa dân số sang dân số già là 17 - 20 năm, ngắn hơn so với nhiều nước khác.
Đáng chú ý, Việt Nam chỉ mất khoảng 18 năm để chuyển từ “xã hội già hóa” sang “xã hội già” - một tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với các quốc gia phát triển như Pháp (115 năm), Thụy Điển (85 năm), Nhật Bản (26 năm). Sự chuyển dịch nhân khẩu học này đang diễn ra trong khi nền kinh tế và hệ thống phúc lợi xã hội của Việt Nam chưa đạt đến mức đủ mạnh để thích nghi.
Tốc độ già hóa nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế khiến xã hội có nguy cơ phải đối mặt với sự suy giảm lực lượng lao động, gia tăng gánh nặng y tế, và áp lực chi trả bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, thay vì tiếp tục tập trung vào mặt tiêu cực, đã đến lúc Việt Nam phải nhìn NCT như một phân khúc thị trường và một nguồn lực xã hội chưa được khai thác đúng mức.
![]() |
| Người cao tuổi là nguồn lực phát triển kinh tế bạc. |
Theo một khảo sát năm 2022 của Viện Nghiên cứu Dân số, Gia đình và Trẻ em, NCT Việt Nam chi tiêu trung bình khoảng 2,7 triệu đồng/người/tháng, trong đó phần lớn tập trung vào y tế, thực phẩm chức năng, và các dịch vụ sức khỏe. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa coi đây là một nhóm khách hàng chiến lược.
Thị trường tiêu dùng Việt Nam đang bị chi phối bởi logic “trẻ hóa”, từ thời trang, truyền thông đến công nghệ. Trong khi những sản phẩm thiết kế riêng cho NCT (đồ gia dụng thân thiện, thiết bị y tế tại gia, dịch vụ ngân hàng cá nhân…) còn rất hạn chế. Hệ quả là người tiêu dùng cao tuổi bị lãng quên. Sự thiếu nhạy bén thị trường của doanh nghiệp không chỉ là một lỗ hổng kinh tế mà còn phản ánh tư duy xã hội còn nặng tính “bảo trợ” đối với NCT, thay vì nhìn nhận họ như một phần tích cực của nền kinh tế.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, chi phí y tế bình quân đầu NCT Việt Nam gấp 7 lần người trưởng thành. Một báo cáo của Bộ Y tế cho biết, khoảng 95% NCT có ít nhất một bệnh mạn tính, gần 75% có từ hai bệnh trở lên. Điều này tạo ra nhu cầu rất lớn về khám chữa bệnh, phục hồi chức năng và chăm sóc dài hạn.
Tuy nhiên, hệ thống chăm sóc NCT tại Việt Nam còn rất sơ khai. Cả nước hiện chỉ có khoảng 32 cơ sở dưỡng lão công lập và hơn 200 cơ sở tư nhân, phần lớn tập trung tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, không đủ đáp ứng cho nhu cầu của NCT. Các dịch vụ chăm sóc tại nhà hay bệnh viện lão khoa chuyên biệt chưa có nhiều.
Trong khi đó, cơ hội đầu tư cho y tế và chăm sóc dài hạn lại là lĩnh vực có tiềm năng đầu tư cao. Kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy sự bùng nổ của các doanh nghiệp chăm sóc sức khỏe và công nghệ y tế khi dân số già hóa. Mô hình bệnh viện - khách sạn, trung tâm dưỡng lão kết hợp vật lí trị liệu, nhà thông minh cho NCT… đều có thể được nhân rộng tại Việt Nam nếu có chính sách hỗ trợ và khuyến khích đầu tư rõ ràng.
Thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong nhóm từ 60-69 tuổi, có tới 43% vẫn tiếp tục làm việc, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và phi chính thức. Tuy nhiên, đây là “sự tiếp tục vì hoàn cảnh” chứ không phải do được khuyến khích một cách chủ động. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ NCT có trình độ, kinh nghiệm, mong muốn tiếp tục cống hiến nhưng thiếu cơ chế hỗ trợ.
Khái niệm “lao động bạc” - tức tận dụng năng lực làm việc của NCT - đã được nhiều quốc gia triển khai bằng cách tạo việc làm linh hoạt, tái đào tạo nghề, cho phép nghỉ hưu bán phần… Tại Việt Nam, Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, đặt ra mục tiêu xây dựng hệ sinh thái dịch vụ phù hợp với NCT. Một số ngân hàng bắt đầu tung ra sản phẩm tài chính thân thiện với NCT. Một vài startup công nghệ đang thử nghiệm mô hình theo dõi sức khỏe từ xa, nhà thông minh cho người già, hay nền tảng kết nối với điều dưỡng.
Tuy nhiên, phần lớn các sáng kiến vẫn ở mức thử nghiệm và thiếu tính hệ thống. Việt Nam hiện chưa có một khung pháp lí rõ ràng cho lĩnh vực “kinh tế bạc”. Các cơ chế ưu đãi thuế, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào dịch vụ người già, hay đào tạo nhân lực chuyên biệt gần như chưa được đề cập trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Nếu nhìn NCT là “chi phí phải gánh”, thì già hóa dân số sẽ là thảm họa. Nhưng nếu nhìn họ như “khách hàng tiềm năng” và “nguồn lực có kinh nghiệm”, thì “kinh tế bạc” sẽ là một động lực phát triển đầy hứa hẹn. Kinh nghiệm cho thấy, những quốc gia có chiến lược quốc gia về “kinh tế bạc” sớm như Nhật Bản, Đức, Pháp đều có hệ sinh thái dịch vụ phát triển rất nhanh và bền vững.
Với Việt Nam, đã đến lúc cần xây dựng một Chiến lược Quốc gia về phát triển “kinh tế bạc”, với các trụ cột gồm: Chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội; thị trường tiêu dùng và công nghệ cho NCT; đào tạo và sử dụng lao động cao tuổi; và hạ tầng đô thị thân thiện với NCT. Đồng thời cần hành động sớm để biến thách thức thành cơ hội. Một nền “kinh tế bạc” phát triển không chỉ là giải pháp cho vấn đề dân số mà còn là bước tiến cần thiết để hướng đến một xã hội nhân văn, bao trùm và bền vững.